Rác được nhập từ tứ xứ về làng Khoai (thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) để “luân hồi” một vòng đời mới.

Hàng hóa chủ yếu là nilon đã qua sử dụng. Những lô nhập khẩu từ nước ngoài được đóng thành kiện, chắc nịch, cứng như đá. Còn hàng trong nước thì được đóng gói, chất đầy trên các xe tải. Ngoài ra, còn có một số loại nhựa khác, thậm chí lẫn trong những bao tải là những chiếc kim tiêm còn nguyên máu.

"Nguồn sống" của người dân làng Khoai được xếp gọn gàng chờ ngày "tái sinh". Ảnh: Minh Toàn.

Hàng được mua theo cân với giá dao động từ 10 - 20 nghìn đồng, tùy chất lượng và độ ẩm. Ở làng Khoai, các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh từ phân loại, tạo hạt đến sản xuất thành phẩm, nối nhau tạo thành một vòng đời hoàn chỉnh cho nilon. 

Loại hạt xịn có giá cao nhất từ 20.000 - 25.000 đồng/kg, thường có màu trắng trong. Độ đục của hạt tỷ lệ thuận với giá thành. Tức là hạt càng đục, càng đen thì giá càng thấp. Vì theo một số chủ cơ sở ở đây, hạt đục là hàng kém chất lượng, tạp nham nên có giá thành tương đối thấp.

Đa dạng hạt nhựa thành phẩm được bán trên nhiều hội nhóm
Đa dạng hạt nhựa thành phẩm được bán trên nhiều hội nhóm "chợ làng Khoai" với giá tỉ lệ thuận với độ "trong trắng" của hạt nhựa.

Hạt nhựa thành phẩm sau quá trình tái chế sẽ được xuất đi các địa phương trong nước. Thứ còn lại ở làng Khoai là tiền và phế thải còn lại từ quá trình tái chế. Bãi rác được tập kết ở nơi cách xa khu dân cư, đã được đốt nhiều lần để đảm bảo diện tích chứa nhưng hiện “núi rác” đã tràn cả ra khu nghĩa địa bên cạnh.

Số lượng thành phẩm mỗi cơ sở xuất đi hàng tháng rất lớn. Điển hình như cơ sở tái chế nhựa của gia đình anh Phùng Đức Vương (46 tuổi) có diện tích 250m2 với 5 nhân công làm việc liên tục mỗi tháng có thể sản xuất được khoảng 80 tấn nhựa thành phẩm. Trung bình mỗi kilogam hạt có giá khoảng 17 nghìn đồng.

Dây chuyền sản xuất trị giá hàng tỷ đồng của 1 hộ sản xuất hạt nhựa trên địa bàn làng Minh Khai. Ảnh: Minh Toàn.
Dây chuyền sản xuất trị giá hàng tỷ đồng của 1 hộ sản xuất hạt nhựa trên địa bàn làng Minh Khai. Ảnh: Minh Toàn.

Thế nhưng chi phí vận hành, hao hụt của cơ sở này cũng không phải là con số nhỏ. Chị Nhuận (vợ anh Vương) cho biết: “Mỗi tháng đến cả trăm triệu tiền điện, chưa kể tiền nhân công, chi phí vận hành máy móc. Tổng chi phí vận hành mỗi tháng phải đến cả tỷ…”. Con số quá đỗi khổng lồ đối với một cơ sở sản xuất với quy mô hộ gia đình. Không khó hiểu khi đã có kinh nghiệm gần 30 năm trong nghề, gia đình anh Vương đã đổi đời, xây được nhà lầu, tậu được xế xịn.

Không chỉ là nguồn sống của người dân làng Khoai mà công cuộc “nhựa hoá” làng nghề cũng tạo ra sinh kế mới cho nhiều người dân ở các địa phương lân cận. Quy mô cơ sở sản xuất được mở rộng, vì vậy số lượng nhân công cũng tăng dần theo quy mô làng nghề.

Trong đó, nhiều lao động là người dân tộc thiểu số đổ về từ các tỉnh Sơn La, Hà Giang,… với mong muốn tìm kiếm một công việc mưu sinh. Ở trong các xưởng, công việc của nhân công thường là rửa, xay, nóng chảy, kéo sợi, cắt hạt. Do tính chất công việc tương đối nguy hiểm, thường xuyên phải tiếp xúc với những hợp chất độc hại bốc lên từ quá trình nóng chảy nilon nên mức lương của những người này cũng ở mức tương đối.

“Cái này khoán theo cân, 800 đồng/1kg, 800.000 đồng/tấn, mỗi tháng thu nhập của tôi cũng được 15 - 16 triệu đồng. Chẳng nguy hiểm gì, có mấy khi bỏng đâu”, anh Đinh Văn Dứ (39 tuổi, ở Sơn La) là thợ kéo sợi, cắt sợi để tạo thành những hạt nhựa thành phẩm.

Ở ngoài bãi, công việc của công nhân nhẹ nhàng hơn, chủ yếu là phân loại, đóng gói nilon sau phân loại, bốc dỡ hàng. Họ chủ yếu là người lớn tuổi và phụ nữ. Công việc tưởng chừng không nguy hiểm này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi lẩn khuất trong các kiện hàng đó có cả mảnh thuỷ tinh hay thậm chí là rác thải y tế - những thứ có khả năng cao mang trong mình những mầm bệnh truyền nhiễm.

Thế nhưng, mức thu nhập của họ cũng tương đối rẻ mạt so với tính chất công việc. Anh Hoàng Văn Nam (64 tuổi, ở Sơn La) cho biết: “Ngày trước công lao động 250.000 đồng/ngày nhưng bây giờ nhiều người làm quá rồi nên chỉ còn 230.000 đồng/ngày. Ngày làm 10 tiếng, sáng từ 6h-12h, chiều từ 13h-17h…”. Số tiền đó đã bao gồm phí ăn trưa. Hầu hết anh chị em đều ăn trưa và nghỉ trưa luôn tại bãi để tiết kiệm thời gian.

Ngoài ra, những dịch vụ ăn theo nhân công cũng phát triển dần theo quy mô của làng nghề. Nhiều nhà trọ giá rẻ cho nhân công trong khu vực mọc lên như nấm sau mưa. Giá mỗi phòng khoảng 1 - 1,5 triệu đồng/tháng. Như vậy những người nhân công ở bãi này tối đa cũng chỉ dành dụm được 5 triệu đồng một tháng chưa tính tiền ăn.

Quy mô làng nghề càng lớn lượng hàng thành phẩm càng cao, nhu cầu về công nhân bốc dỡ hàng cũng tăng dần từ đó. Dịch vụ cho thuê nhân công bốc dỡ trở thành ngành “siêu lợi nhuận”. Những người bốc dỡ được thuê với giá niêm yết 40.000 đồng/tấn. Họ chủ yếu là người dân tộc thiểu số, được “nuôi” tập trung và phải nộp 40.000 đồng/ngày tiền phế dù đi làm hay không.

Đơn vị bốc vác H.L cho biết: “Muốn bao nhiêu nhà chị cũng có. Nhà chị có số lượng lớn. Anh em ăn, ở nhà chị hết nên sẵn, không mất thời gian. Tiền ăn chỉ 20.000 đồng/bữa, ngủ lại có 10.000 đồng. Gọi là tạo cơ hội cho anh em làm việc thôi”.

Số lượng lớn ở đây không phải là số lượng hàng hóa hay phế thải mà là số lượng lớn nhân công bốc vác. Không chỉ “ăn” trên rác, trên phế thải mà nhiều đối tượng ở đây còn lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nhân công để “ăn” trên công sức của nhân công. Nhân công càng khổ, làng càng ô nhiễm thì chủ sản xuất càng giàu.

Được xem là vựa tái chế nhựa lớn nhất cả nước, làng Minh Khai (hay còn gọi là làng Khoai, thuộc thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên) có tới hàng nghìn hộ dân làm nghề tái chế phế liệu. Rác thải không chỉ là “nguồn sống” của người làng, mà còn là “kế sinh nhai” của nhiều bà con ở các địa phương lân cận khác.

Những năm 1980, Minh Khai là ngôi làng chuyên thu mua, buôn bán phế liệu nhựa. Năm 1998, UBND tỉnh Hưng Yên ra quyết định thành lập làng nghề tái chế nhựa Minh Khai. Cho đến nay, làng nghề đã có hơn 20 năm hoạt động và được xem là ngôi làng tái chế rác thải nhựa lớn nhất cả nước.

Hiện nay, làng có 456 hộ làm nghề. Do đó, tại làng Minh Khai, cụm công nghiệp 1 có 143 cơ sở, cụm công nghiệp 3 có 313 cơ sở. Hơn 90% hộ dân tham gia vào quá trình sản xuất, tái chế nhựa.

Hiện nay, địa phương cũng đã được các cấp phê duyệt mở rộng cụm công nghiệp làng nghề Minh Khai 3 (làng Khoai). Hiện nay đang triển khai công tác hạ tầng và tiến tới sẽ vận động các hộ dân mua đất hạ tầng để sản xuất. Để thực hiện được điều này, chính quyền địa phương cũng đã phối hợp với các ngân hàng trên địa bàn tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân vay vốn để sản xuất kinh doanh.

Làng Khoai hiện được phủ kín bằng những nhà cao tầng, không ít trong số đó là những cơ sở sản xuất nhựa. Ảnh: Vượng Lê.
Làng Khoai hiện được phủ kín bằng những nhà cao tầng, không ít trong số đó là những cơ sở sản xuất nhựa. Ảnh: Vượng Lê.

Theo đánh giá sơ bộ của ông Vũ Đức Đoàn (Phó Chủ tịch UBND Thị trấn Như Quỳnh): “Về mặt chuyển đổi cơ cấu kinh tế, làng chuyển từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thứ 2, điều này đã tạo điều kiện cho người dân có một mức thu nhập tương đối ổn định và cao. Thứ 3, đã tạo công ăn việc làm cho người dân một số tỉnh miền núi phía Bắc và các vùng lân cận…”.

Theo thống kê, mỗi hộ kinh doanh sản xuất thu về trung bình từ 15-20 triệu đồng/tháng sau khi đã trừ đi tất cả các chi phí. Con số này nhỏ hơn rất nhiều lợi nhuận của cơ sở tạo hạt nhà chị Nhuận thu về mỗi tháng.

Có thể nói, đây là một ngành kinh doanh đem lại thu nhập tương đối ổn định cho người lao động. Thế nhưng cái họ kinh doanh lại là kinh doanh sự ô nhiễm. Khi vấn đề ô nhiễm được giải quyết cũng là lúc phương pháp kinh doanh “ăn sổi” này kết thúc. Những triệu phú này mất đi “cái cần câu cơm” hiệu quả nhất.

Xem chi tiết bài viết tại: "Bức tử" đại công trường rác

Đừng bỏ lỡ
Sôi nổi các hoạt động chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11

Sôi nổi các hoạt động chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11

Tin nổi bật3 ngày trước

(Sóng trẻ) - Nhiều trường học trên cả nước đã tổ chức các hoạt động thiết thực nhằm hướng tới Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, tạo không khí thi đua phấn khởi cho học sinh, sinh viên và đội ngũ nhà giáo.

Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam

Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam

Tin nổi bật3 ngày trước

(Sóng trẻ) - 94 năm qua, Mặt trận Thống nhất Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

[Infographic] Lịch sử ngày Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam

[Infographic] Lịch sử ngày Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam

Tin nổi bật3 ngày trước

(Sóng trẻ) - Ra đời vào năm 1950, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (Vietnam Union of Friendship Organizations - VUFO) đã góp phần to lớn trong việc xây dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế.

XEM THÊM TIN