
Theo thống kê của Tổng cục Dân số, tổng tỷ suất sinh (TFR) của Việt Nam chỉ còn 1,91 con/ phụ nữ năm 2024, giảm liên tục từ 2,01 (2022) và 1,96 (2023). Con số này thấp hơn mức sinh thay thế 2,1 – mức cần thiết để duy trì quy mô dân số ổn định. Trong thập niên 1980, mỗi gia đình Việt thường có 3–4 con, thậm chí coi “đông con nhiều cháu” là nét văn hóa phổ biến. Nhưng chỉ sau vài chục năm, Việt Nam đã rơi xuống mức sinh thấp, tiến nhanh vào nhóm quốc gia có tỷ suất sinh dưới mức thay thế.

Chỉ trong vòng vài chục năm, Việt Nam đã rơi từ tình trạng “bùng nổ dân số” sang nguy cơ suy giảm dân số chưa từng có tiền lệ. Nếu những năm 1980, một gia đình 3-4 đứa con là chuyện thường tình thì nay nhiều cặp vợ chồng chỉ sinh một con, thậm chí không sinh. Ông bà xưa vẫn quan niệm “Đông con hơn nhiều của”, coi việc có đàn con cháu đông đúc là phúc phần, là “bảo hiểm tuổi già” không gì thay thế. Vậy mà hôm nay, xã hội phát triển lại kéo theo một nghịch cảnh: con cái từ “tài sản quý giá” biến thành “gánh nặng kinh tế” trong mắt nhiều người trẻ.

Dù cả hai đều có công việc ổn định, thu nhập ở mức khá, nhưng chi phí sinh hoạt, tiền thuê nhà và áp lực tích lũy mua nhà khiến vợ chồng chị vẫn tạm gác chuyện con cái. “Chúng tôi cũng lo, nếu sinh con ngay bây giờ thì gánh nặng chi phí học hành, y tế, chăm sóc sẽ vượt quá khả năng”, chị nói thêm.
Câu chuyện của chị Thuý không phải cá biệt mà là bức tranh chung của nhiều cặp vợ chồng trẻ ở các đô thị lớn – nơi giá nhà đất, chi phí giáo dục và sinh hoạt đắt đỏ. Trong suy nghĩ của không ít người trẻ, việc sinh con không còn là “chuyện đương nhiên” sau hôn nhân, mà trở thành một quyết định phải cân nhắc kỹ lưỡng về kinh tế, thời gian và cả chất lượng cuộc sống.
Kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024 của Tổng cục Thống kê phơi bày một thực tế đáng báo động: mức sinh ở thành thị Việt Nam đã tụt xuống chỉ còn 1,67 con/phụ nữ - thấp đến mức khó tin, trong khi khu vực nông thôn vẫn cầm cự ở 2,08 con/phụ nữ. Tổng số có 32 tỉnh, thành phố thuộc có mức sinh thấp hơn mức sinh thay thế (dưới 2,1 con/phụ nữ); có 25 tỉnh, thành phố có mức sinh dao động xung quanh mức sinh thay thế và chỉ còn vỏn vẹn 6 địa phương giữ được mức sinh cao hơn 2,5. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có mức sinh thấp nhất cả nước (1,39 con/phụ nữ), Hà Giang có mức sinh cao nhất cả nước (2,69 con/phụ nữ).


Thực trạng này không phải cá biệt của Việt Nam mà phản ánh xu hướng chung trên toàn cầu. Báo cáo Tình trạng Dân số thế giới năm 2025 cho thấy, dù dân số toàn cầu đã tăng gấp ba lần kể từ năm 1950, nhưng tỷ suất sinh lại lao dốc mạnh: từ mức 5 con/phụ nữ vào năm 1950, xuống chỉ còn 2,25 con/phụ nữ năm 2024 và dự báo sẽ tiếp tục chạm ngưỡng 2,1 con/phụ nữ vào năm 2050 – đúng bằng mức sinh thay thế.
Ở châu Á, nhiều đô thị lớn như Seoul, Tokyo hay Singapore đang loay hoay trong vòng xoáy “già hóa + sinh ít”. Hệ lụy không còn là cảnh báo trên giấy tờ, mà đã hiển hiện bằng những con số lạnh lùng. Chỉ riêng Nhật Bản, 6 tháng đầu năm 2025 đã có 22 trường mẫu giáo phá sản hoặc đóng cửa, tăng tới 70% so với cùng kỳ năm 2023. Nhật Bản dự kiến thiếu 10 triệu lao động vào năm 2040; còn Hàn Quốc, nếu không thay đổi, lực lượng lao động sẽ giảm gần 9,4 triệu người trong vòng 20 năm tới - tương đương mất đi cả một tỉnh công nghiệp. Đằng sau những con số ấy là xu hướng ngày càng tăng do người trẻ ưu tiên công việc, chọn sống một mình, kết hôn muộn hoặc không kết hôn.
Từ câu chuyện ở các quốc gia châu Á, có thể thấy rõ một kịch bản mà Việt Nam không thể đứng ngoài. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ mất khoảng 20 năm để chúng ta bước từ “xã hội trẻ” sang “xã hội già”, nhanh hơn nhiều nước phát triển. Điều đó đồng nghĩa “cửa sổ dân số vàng” đang khép lại sớm, trong khi tỷ lệ sinh vẫn ở mức thấp. Nếu không có chính sách căn cơ ngay từ bây giờ, Việt Nam có nguy cơ đối diện viễn cảnh “già trước khi giàu” với lực lượng lao động suy kiệt và gánh nặng an sinh y tế đè nặng lên toàn xã hội.

Nếu mức sinh thấp là một vế của bức tranh, thì già hóa dân số là vế còn lại, thậm chí gay gắt hơn. Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), một quốc gia được coi là đang trong “cơ cấu dân số vàng” khi nhóm dân số trẻ em (0–14 tuổi) chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 30% và nhóm dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm tỷ trọng thấp hơn 15%. Việt Nam hiện vẫn đang trong cơ cấu dân số vàng khi cứ một người phụ thuộc thì có hai người trong độ tuổi lao động, trong đó tỷ trọng dân số từ 15–64 tuổi chiếm 67,4%, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi chiếm 23,3% và tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 9,3%.

Tuổi thọ trung bình của người Việt cũng đã tăng từ 73,6 năm (2020) lên 74,6 năm (2023). Đây là một thành tựu đáng mừng, cho thấy đời sống và y tế được cải thiện, nhưng đồng thời cũng kéo theo hệ quả là số người cao tuổi gia tăng nhanh chóng. Dự báo đến năm 2050, người trên 60 tuổi sẽ chiếm 25% dân số Việt Nam, tức cứ 4 người thì có 1 người già.

Đáng lo ngại hơn, Việt Nam bước vào giai đoạn dân số già với tốc độ rất nhanh. Năm 2011, quá trình này đã bắt đầu, và đến năm 2024, số lượng người từ 60 tuổi trở lên đã đạt 14,2 triệu người, tăng thêm 2,8 triệu so với năm 2019 và tăng 4,7 triệu so với năm 2014. Nếu nước Pháp phải mất tới 115 năm để đi từ xã hội trẻ sang xã hội già, thì Việt Nam chỉ cần khoảng 20 năm – nhanh gấp nhiều lần.
Sự kết hợp giữa mức sinh thấp và già hóa nhanh tạo nên “gọng kìm dân số”. Một bên là số người già tăng mạnh, trong khi bên còn lại là lực lượng trẻ, tức nguồn lao động chính, đang giảm dần. Theo dự báo, từ năm 2035, Việt Nam có thể mất đi 1 triệu lao động mỗi năm, một con số cực kỳ lớn, đe dọa lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế.
Hãy thử hình dung căn nhà nhỏ chỉ còn hai ông bà già nương tựa. Con cháu đi xa, hoặc thậm chí không có con. Ở Nhật, bi kịch này đã hiện hữu: hàng trăm nghìn người già sống đơn độc, nhiều trường hợp tử vong nhiều ngày không ai hay, một hiện tượng gọi là “kodokushi” – cái chết cô độc. Nó không chỉ phơi bày sự khắc nghiệt của già hóa mà còn khoét sâu vào sự rạn vỡ gắn kết xã hội.
Nếu kịch bản ấy xảy ra ở Việt Nam, hệ lụy sẽ khôn lường. Quỹ hưu trí vốn đã chật vật sẽ oằn mình, hệ thống y tế và dịch vụ chăm sóc người cao tuổi rơi vào tình trạng quá tải. Nghiêm trọng hơn, nền tảng gia đình vốn được coi là “phao cứu sinh” của xã hội Việt có nguy cơ lung lay. Một xã hội vắng tiếng trẻ thơ, nhiều mái đầu bạc cô đơn sẽ không chỉ đối mặt với bài toán nhân khẩu học mà còn đứng trước thách thức về sự gắn kết cộng đồng.
Thực tế mức sinh thấp tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang gióng lên hồi chuông báo động đỏ về những hệ lụy lâu dài cho xã hội. Khi những chiếc nôi ngày càng thưa thớt, còn mái tóc bạc thì nhiều thêm, xã hội sẽ phải trả giá bằng sự thiếu hụt lao động, gánh nặng an sinh và nguy cơ bỏ lỡ cơ hội phát triển. Câu hỏi không chỉ là “Việt Nam sẽ đối mặt thế nào với mức sinh thấp?” mà còn là: Làm sao để người trẻ cảm thấy yên tâm và đủ điều kiện để sinh con thay vì coi đó là một gánh nặng? Bởi chính quyết định của thế hệ hôm nay sẽ định hình diện mạo dân số mai sau.
1200 chỗ ở miễn phí được Đại học Bách Khoa bố trí cho người dân nhân dịp Quốc Khánh 2/9
(Sóng trẻ) - Từ ngày 30/8/ đến hết 3/9, Đại học Bách Khoa Hà Nội bố trí 1200 chỗ ở miễn phí phục vụ người dân từ nhiều nơi đến Thủ Đô để tham dự Lễ diễu binh, diễu hành mừng 80 năm ngày Quốc Khánh 2/9.
Người dân háo hức tham gia Triển lãm “80 năm rạng rỡ non sông - Con đường Độc lập”
(Sóng trẻ) - Sáng ngày 31/8, tại trụ sở Báo Nhân Dân (71 Hàng Trống, Hà Nội), đông đảo người dân xếp hàng dài để nhận ấn phẩm đặc biệt nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.
Không gian trải nghiệm của VTV thu hút đông đảo khách tham quan
(Sóng trẻ) - Ngày 29/8, tại Triển lãm Thành tựu đất nước, khách tham quan triển lãm được tìm hiểu về kênh truyền hình mới sắp lên sóng - Vietnam Today và trải nghiệm các công nghệ truyền hình hiện đại.