Nhà hát Cô Đầu - Bài cuối: Thay đổi định kiến về những cô đầu một thuở
(Sóng trẻ) - Theo nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, các cô đầu trong quá khứ cũng tham gia kháng chiến và trở thành một phần của lịch sử. Vậy nên, đã tới lúc cần có cách nhìn nhân văn hơn với thế hệ những nghệ sĩ tại các nhà hát Cô đầu.
Sự suy tàn của những nhà hát cô Đầu
Bước sang nửa sau thế kỷ XX, trước những biến động mạnh mẽ của xã hội, nghệ thuật ca trù, một di sản văn hóa độc đáo, dần dần rơi vào quên lãng. Các giáo phường giải thể, nhà hát cô đầu đóng cửa, và những giọng ca tài hoa một thời cũng dần mai một. Ca trù, như một bông hoa rực rỡ, giờ đây chỉ còn là ký ức trong lòng người yêu nghệ thuật.
Sự sụp đổ của hệ thống nhà hát đã kéo theo sự mai một của một hệ giá trị nghệ thuật độc đáo. Hàng nghìn đào kép, những nghệ sĩ tài hoa, bỗng chốc trở thành những người lao động bình thường. Nhiều người đã phải chuyển đổi nghề nghiệp, từ một nghệ sĩ sân khấu sang những công việc chân tay nặng nhọc.
Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan đã chia sẻ một thực tế đáng buồn: ngay cả những người có nhiệm vụ đóng cửa các nhà hát cô đầu cũng là những người yêu thích nghệ thuật này. Điều đó cho thấy, sự ra đi của ca trù là một mất mát lớn đối với cả những người trong cuộc.
NSND Quách Thị Hồ - một trong những giọng ca vàng của làng ca trù, cũng không tránh khỏi cảnh ngộ éo le. Bà từng phải làm những công việc nặng nhọc để kiếm sống. Trong khi đó, những người có khả năng thích nghi như NSND Phó Thị Kim Đức đã tìm được một con đường mới cho sự nghiệp nghệ thuật của mình.
Sau khi các nhà hát cô đầu đóng cửa, số phận của các đào kép trở nên vô cùng bi đát. Nhiều người trong số họ buộc phải sống ẩn dật, giấu kín thân phận nghệ sĩ để tránh sự kỳ thị của xã hội. Chỉ một số ít những danh ca may mắn mới có cơ hội tiếp tục theo đuổi nghệ thuật trong không gian riêng tư.
Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền đã bày tỏ sự tiếc nuối khi cho biết nhiều câu hỏi về cuộc đời của các danh ca vẫn còn bỏ ngỏ. Sự im lặng của họ đã trở thành một trong những bí ẩn của lịch sử văn hóa dân tộc.
Không chỉ phải đối mặt với sự kỳ thị, nhiều cô đào còn trở thành nạn nhân của những cuộc đấu tố, tra khảo. Những ký ức đau thương này đã ám ảnh họ suốt cuộc đời, khiến họ không dám hé lộ quá khứ của mình. Sự ám ảnh về quá khứ đã khiến nhiều danh ca từ chối chia sẻ về cuộc đời mình. Ngay cả những người có ý định tìm hiểu và bảo tồn nghệ thuật ca trù cũng gặp phải những khó khăn khi tiếp cận những nhân chứng lịch sử này.
NSƯT Bạch Vân đã chia sẻ những câu chuyện đau lòng về số phận của các cô đào. Bà cho biết có những người đã chọn cách kết thúc cuộc đời mình để chấm dứt nỗi đau. Những câu chuyện này đã để lại trong lòng bà một nỗi buồn sâu sắc.
NSND Thương Huyền và NSND Phó Thị Kim Đức là hai ví dụ điển hình cho sự dè dặt của các danh ca khi nhắc đến quá khứ của mình. Họ đã phải sống trong sự sợ hãi bị phát hiện và bị xã hội kỳ thị.
Đã đến lúc cần thay đổi định kiến về cô đầu
Trong “Ả đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền cho biết, các cô đầu đã từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước lời kêu gọi kháng chiến năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều cô đầu, kép đàn các nhà hát Khâm Thiên, Vạn Thái, Ngã Tư Sở đã không bỏ chạy, tình nguyện ở lại Hà Nội cùng các chiến sĩ cảm tử quân, vệ quốc đoàn. Họ tham gia vào các đội giao liên, tải thương trên mặt trận liên khu 2 và liên khu 3.
Hình ảnh đó được nhạc sĩ Văn Cao phản ánh trung thực và sinh động trong bài thơ “Ngoại ô mùa đông 1946”: “...Xưa đây lối xóm cầm ca/ Bốn mùa ngả nghiêng trụy lạc/ Khăn lụa che ngang mày thét nhạc/ Gót chân xanh khép giọng Tì bà/ Em gái Ngã Tư Sở/ Anh người thợ Nam Đồng/ Đêm sênh ca khốn khổ/ Đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông/ Xác anh vùi lửa đạn/ Xác em vùi bên anh/ Khói súng mờ bay nhạt cả xóm xanh/ Lửa bừng cháy lên rực phía đô thành”.
Hay NSƯT Bạch Vân cho biết, ca nương nổi tiếng của làng Lỗ Khê là bà Phạm Thị Mùi cũng từng trồng lúa, góp gạo để nuôi chồng hoạt động cách mạng. Nhiều cô đầu đã ngã xuống bên chiến lũy bảo vệ thủ đô trong 60 ngày đêm lịch sử. Hàng trăm đào nương - cô đầu sau đó lại tình nguyện tham gia kháng chiến.
“Hãy thử hình dung, với thân phận ca kỹ nơi thành thị, các cô hoàn toàn có thể bỏ trốn khỏi vùng bom đạn, khói lửa chiến tranh. Nhưng điều gì đã khiến họ hành động như vậy? Chỉ có thể nói là lòng yêu nước và bản năng trong mỗi con dân nước Việt khi Tổ quốc lâm nguy. Các cô đầu đã trở thành một phần lịch sử của dân tộc”, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền bày tỏ trong “Ả đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”.
Bao nhiêu năm qua, NSƯT Bạch Vân trong những chuyến đi biểu diễn cũng dành ra từ 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ để nói về lịch sử của nghệ thuật Ca trù, nhằm thay đổi cách nhìn của xã hội về môn nghệ thuật này và các cô đầu trong nhà hát thời trước.
“Khi tôi bắt đầu khôi phục Ca trù, có vị lãnh đạo ở Sở Văn hóa và Thể thao bảo với tôi rằng “nghe đồn em khôi phục cô đầu Khâm Thiên đấy à, đấy là đàng điếm đấy em ạ!”. Tôi mới nổi điên lên và lập tức đuổi vị đó ra khỏi phòng.
Hai cô đầu Khâm Thiên cùng các chiến sĩ vệ quốc đoàn bên chiến lũy phố Khâm Thiên những ngày đầu kháng chiến toàn quốc (12/1946). Ảnh: "Ả đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật".
Năm 2011, khi ấy đã là 2 năm Ca trù đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Tôi về biểu diễn tại đình Kim Ngân ở phố Hàng Bạc, vẫn có những người nói với tôi “cô là cô đầu à” hay “cô lại mang cô đầu Khâm Thiên về đây đấy à”. Thời điểm ấy vẫn còn căng thẳng lắm, họ vẫn còn rất dè bỉu các cô đầu. Tới bây giờ qua những gì tôi làm được, người ta mới dần hiểu ra”, NSƯT Bạch Vân bộc bạch.
Cũng theo NSƯT Bạch Vân, qua những gì bà tiếp xúc với các danh ca Ca trù thời trước, đó đều là những người rất chuẩn mực về đạo đức. Thậm chí, để được học hát, NSƯT Bạch Vân còn từng bị các bậc danh ca thời trước thử thách rất nhiều về đạo đức.
NSƯT Bạch Vân chia sẻ thêm, những điều mà xã hội cho rằng, nhà hát Cô đầu là chốn “sa đọa” chỉ là những thú ăn chơi quá đà của một số người tại các nhà hát Cô đầu thời bấy giờ. Thậm chí, việc các cô đầu rượu tiếp khách qua đêm cũng chỉ bao gồm các hoạt động như trải chiếu, mắc màn và tiếp rượu cho khách. Dù khách chơi qua đêm phải trả tiền nhưng không phải cô đầu rượu nào cũng sẽ đồng ý quan hệ nam nữ với vị khách đó; với các cô đầu hát thì lại càng khó hơn.
Còn nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền cho rằng: “Xã hội mới thời kỳ thực dân phong kiến quá khắt khe, để rồi đã phủ định hoàn toàn một thể loại âm nhạc danh giá nhất trong lịch sử cũng như những đào kép xuất chúng, những số phận cô đầu mà cuộc đời họ giống như một khúc ca bi tráng. Đã đến lúc phải có một cách nhìn nhân văn hơn với thế hệ những nghệ sĩ Ả Đào. Họ đã trở thành một phần của lịch sử văn hóa dân tộc”.