Người đan nón: Hành trình 50 năm với chiếc nón của nghệ nhân (Kỳ 1)
(Sóng trẻ) - Với 50 năm tuổi nghề, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã gìn giữ nét đẹp truyền thống và thổi hồn vào từng chiếc nón lá Việt.
Bén duyên với nghề nón
Đến với nghề làm nón lá vừa là cái duyên vừa là cái nợ. Được sinh ra và lớn tại làng Chuông - nơi hình thành của chiếc nón Chuông nổi tiếng, nghệ nhân Lê Văn Tuy được bén duyên với nghề từ rất sớm.
Nghề làm nón lá là nghề truyền thống được truyền lại qua nhiều thế hệ, nằm trong bụng mẹ đã phải biết làm nghề. Gia đình khó khăn nên khi mới lên 5, 6 tuổi, nghệ nhân đã phụ cha mẹ làm những công đoạn đơn giản. Cả tuổi thơ và tuổi trẻ của ông đều gắn liền với lá cọ, lá nón, với đường kim mũi chỉ.

50 năm làm nghề đã đem lại cho nghệ nhân Tuy vốn kinh nghiệm quý giá và thành công lớn. Năm 1999, một đơn hàng lớn đã mở ra hướng phát triển mới cho ông. Nhận làm một chiếc nón cỡ lớn, đường kính tới 1m với yêu cầu lá nón được nối là những bước phát triển đầu tiên giúp cho nghệ nhân Tuy có được những thành tựu về sau. Năm 2016, nón lá của ông may mắn được nhà nước lựa chọn là 1 trong 32 sản phẩm truyền thống tiêu biểu, thành món quà tặng bạn bè quốc tế và trưng bày triển lãm tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Sau đó, Văn phòng Chính phủ cũng nhiều lần đặt làm riêng nón lá để làm quà biếu các nước với số lượng lên đến 500 chiếc. Ông còn được Nhà nước và thành phố Hà Nội phong tặng Nghệ nhân và trao tặng Bảng vàng gia tộc. Năm 2024, chiếc nón lá của ông được mang đi tham gia trình diễn tại kinh đô thời trang Paris, Pháp. Mỗi thành tựu là cả một quá trình phấn đấu, yêu nghề và giữ nghề. Nghệ nhân Lê Văn Tuy đã dành nửa đời người cho từng chiếc nón lá làng Chuông.
Gìn giữ tinh hoa truyền thống xưa
“Để gìn giữ nghề làm nón lá truyền thống, trước hết, bản thân phải yêu nghề. Không có nghề nào quay lưng với con người, chỉ có con người quay lưng với nghề. Nếu mình biết trân trọng, giữ nghề, yêu nghề thì nghề nào cũng thành công, không có nghề nào là nghề xấu”, ông Tuy chia sẻ. Hiện nay, chúng ta không chỉ muốn ăn no, mặc ấm mà còn ăn ngon, mặc đẹp. Vì vậy, những chiếc nón cũng trở nên đa dạng, đặc biệt hơn. Bạn bè quốc tế thường ấn tượng với hình ảnh người con gái Việt Nam trong tà áo dài cùng với chiếc nón lá truyền thống. Chính những điều này càng trở thành nguồn động viên to lớn, giúp nghệ nhân yêu nghề và gắn bó hơn với nghề làm nón.
Sự phát triển của xã hội hiện đại sẽ kéo theo một số ngành nghề truyền thống bị mai một, điều đó không thể tránh khỏi. Đối với mỗi nghệ nhân, khi nhìn nét đẹp truyền thống mình gìn giữ bị mai một là điều vô cùng tiếc nuối và xót xa. Để gìn giữ lại những làng nghề truyền thống là cả một quá trình nỗ lực và đồng hành lâu dài của một tập thể, một làng nghề. Đối với nghệ nhân, trước hết là những thế hệ sau của gia đình phải biết yêu nghề, giữ lấy nghề mới có thể gìn giữ và bảo tồn nghề làm nón lá truyền thống bao đời. Vì vậy, ông luôn dặn dò con cái dù làm bất cứ ngành nghề gì nhưng vẫn luôn phải giữ gìn nghề làm nón lá - cái nghề đã nuôi lớn mấy thế hệ đời người. Nghề làm nón đã trở thành một công việc quen thuộc đối với mỗi người con nơi làng Chuông. Biết đâu sau này khi gặp khó khăn, nghề làm nón lá lại trở thành chỗ dựa vững chắc nhất để con người bám trụ tiến lên.
Muốn gìn giữ những làng nghề truyền thống bắt buộc phải gắn liền với du lịch và thương mại. Từ những năm 2000, những chiếc nón của nghệ nhân Tuy dẫn lối những đoàn du khách đầu tiên đến với làng Chuông. Hiện nay, làng Chuông phát triển nghề làm nón lá song song với phát triển du lịch. Những gian hàng trưng bày của các nghệ nhân được dựng lên làm nơi tham quan cho du khách. Tại đây, nghệ nhân Tuy đã tổ chức rất nhiều buổi tham gia trải nghiệm làm nón cho các bạn trẻ và khách du lịch. Người tham gia sẽ được tự tay thực hiện một vài công đoạn để tạo dựng và trang trí chiếc nón của mình.
Trước đây, khách du lịch tới tham quan tương đối đông. Sau dịch bệnh Covid - 19, số lượng khách có sự suy giảm. Đến hiện tại, số lượng khách trở lại với làng Chuông đã ổn định và có xu hướng tăng thêm đáng kể. Ngoài số lượng khách biết và tự tìm đến với làng Chuông, nghệ nhân Tuy còn hợp tác với một công ty du lịch để tổ chức tham quan kết hợp trải nghiệm làm nón lá cho các đoàn du khách quốc tế.
Mong ước của nghệ nhân nón lá
Trong 50 năm làm nghề, bao mong ước của nghệ nhân gần như đã trở thành hiện thực. Mong ước lớn nhất của nghệ nhân Tuy là có được một gian hàng trưng bày nón lá tại trung tâm làng Chuông. Và được sự quan tâm của ban lãnh đạo địa phương, một gian nhà nhỏ - nơi trưng bày và giới thiệu tất cả những sản phẩm tới bà con trong nước và quốc tế đã ra đời.
Nón lá là một nét văn hóa lâu đời của Việt Nam, được làm ở nhiều địa phương khác nhau như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Huế,... Đối với nghệ nhân, không có chiếc nón nào xấu. Mỗi chiếc nón phù hợp với mỗi địa phương khác nhau. Chiếc nón lá Huế phù hợp với điều kiện thời tiết và xã hội tại Huế, chiếc nón Chuông lại phù hợp với điều kiện tự nhiên ngoài Bắc. Nhiều bạn trẻ ngoài Bắc có niềm yêu thích với chiếc nón lá bài thơ Huế mơ mộng, tinh tế. Ngược lại, cũng có những bạn trẻ ở Huế hay trong Nam lại dành một niềm yêu thích đặc biệt với chiếc nón lá làng Chuông thanh mảnh, chắc chắn. Đó vừa là sở thích cá nhân nhưng cũng là văn hóa của mỗi vùng miền. Trong tương lai gần, nghệ nhân mong muốn dưới con mắt của bạn bè quốc tế, chiếc nón lá làng Chuông hay nón lá bài thơ Huế sẽ được biết tới với một tên gọi thân thương và giản dị hơn là chiếc nón lá Việt Nam. Bởi dù chiếc nón được sản xuất tại bất kỳ địa phương nào cũng mang những nét đẹp tinh hoa của truyền thống Việt, của con người Việt Nam.
-1756651692.png)
-1756652900.png)
