Người vén mây canh trời miền tây xứ Quảng
(Sóng trẻ) - Lần đầu tiên gặp anh khi tôi được nhận nhiệm vụ của đơn vị phân công lên Đài trực tăng cường. Với mái tóc quăn tự nhiên, đôi mắt đen nhìn cương nghị, giọng nói đặc sệt xứ Quảng trầm ấm, chân thành “rất vui được đón cậu lên thăm “tổ ấm” của chúng tôi”. Một cảm giác thật chân tình, gần gũi như đã quen anh từ bao giờ. Đó là ấn tượng đầu tiên về Trung úy CN Phạm Minh Cường, Đài trưởng Đài quan sát Phòng không( QSPK ) Đ75, Tiểu đoàn 66, Trung đoàn 275, Sư đoàn Phòng không Đà Nẵng.
Ngưởi thủ lĩnh tiên phong
Đài QSPK Đ75 đóng quân ngay thị Trấn Prao, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam, một huyện nghèo phần đông là đồng bào dân tộc Ktu. Mang tiếng là thị trấn huyện nhưng đếm trên đầu ngón tay chỉ được mấy nóc nhà, đa phần là công chức dưới xuôi lên đây làm việc. Vì vậy cuối tuần ở đây vắng hoe, vắng hoắt. Mò mẫm mãi tôi mới tìm được đường lên Đài. Đến chân con dốc cao, tôi đã thấy anh Cường, Đài trưởng đứng chờ sẵn từ bao giờ. Anh xách hộ tôi chiếc ba lô và nhanh nhẹn đi trước dẫn đường.
Vượt qua 200 bậc đá, bước lên “tổ ấm” của các anh, tôi không khỏi bất ngờ trước sự khang trang, quy củ của nó. Ngôi nhà ở kiêm đài trực tuy nhỏ nhưng được sắp đặt gọn gàng, sạch sẽ dưới những tán cây xanh mát. Nằm trên đỉnh đồi, khuôn viên tuy hẹp nhưng các anh bố trí khu tăng gia, khu chăn nuôi đâu ra đấy. Vườn tăng gia gồm nhiều loại rau lên xanh tốt. Khu chăn nuôi có mấy chú lợn rừng đang nằm lim dim ngủ sau khi đã được ăn no. Trong vườn hàng chục con gà, ngan, vịt đang tung tăng kiếm mồi. Trước sân, những chậu hoa đang rung rinh khoe sắc trong nắng, cây cảnh được cặt tỉa chu đáo. Hai hàng chè xanh thẳng tắp ngay lối vào mới được cắt bằng đang nhú những lộc non. Ấn tượng nhất là đàn chim của Đài luôn hót líu lo, kéo theo chim rừng về đây làm tổ. Hỏi ra mới biết anh Cường rất mê chim cảnh. Anh dẫn tôi đi xem các lồng chim và kể say sưa về đặc điểm của từng chú chim một, từ màu sắc, tính cách cho đến giọng hót, lai lịch của chúng như nắm lai lịch từng chiến sĩ của mình.
Trung úy QNCN Phạm Minh Cường đang thực hiện nhiệm vụ canh trực
Mặc dù đi một quảng đường xa thấm mệt nhưng đặt chân lên đài, cây cối xanh tươi mát mẻ, ríu rít tiếng chim hót và sự chân tình, đầm ấm của anh và các chiến sĩ nơi đây, cái mệt như tan biến đâu hết. Ngồi bên bàn đá trong vườn, dưới tán cây bưởi đang ra hoa mùi thơm thoang thoảng, tôi ngồi nghe anh kể chuyện về Đài. Đặc điểm của các đài quan sát phòng không đều phải đóng quân trên những đỉnh núi cao để có thể quan sát phát hiện và xử lí các tình huống trên không. Để có được “cơ ngơi” như bây giờ họ phải đổ biết bao mồ hôi, công sức. Những ngày đầu lên đây nhận nhiệm vụ với muôn vàn khó khăn đặc biệt là nhiệm vụ xây Đài. Với độ cao gần trăm mét, dốc lên dựng đứng, cây cối mọc um tùm. Để lên đến đỉnh, đi người không cũng phải “bò” lên dốc thế mà khi xây dựng cách anh phải vác cả vật tư, vật liệu, cát đá, xi măng, sắt thép và đặc biệt là nước, phải xách từ chân quả đổi lên từng xô một để trộn vữa bê tông. Đường trơn trượt, nhiều lần bị ngã trầy xướt người, gần đến nơi bị đổ lại phải quay lại xách tiếp. Dạo ấy sắp bước sang mùa mưa, bằng mọi giá phải xây xong cho kịp tiến độ, thế nên họ quyết tâm làm cả đêm. Chưa đầy một tháng, Nhà đã được hoàn thiện và đưa vào sử dụng.
Những ngày đầu điện chưa có, muỗi vắt nhiều như trấu, nước ở dưới đồi, mỗi khi xuống tắm lên dốc mồ hôi lại túa ra như khi chưa tắm. Anh kể: “Ở đây mỗi khi mưa giông, đồi cao sấm sét ghê lắm, đôi khi thấy rợn người. Thú thực đôi lúc cũng thấy ngao ngán, nhưng lại tự nhủ với lòng mình “là người lính, khó khăn thế thì đã sao, như anh em ở biên giới, hải đảo khó khăn hơn nhiều họ vẫn vượt qua được nữa là mình”. Vì vậy anh động viên anh em khắc phục khó khăn thực hiện tốt nhiệm vụ”.
Nan giải nhất là vấn đề tự túc rau xanh. Đất ở đây rất cằn, mùa mưa nhão nhoẹt như bùn, mùa khô thì cứng như đá, rau không lên nổi. Ngày đầu để cải tạo đất, các anh đi cắt cỏ tranh ở xung quanh về đốt lấy tro, đi cắt cây về ủ phân xanh để bón cho đất. Buồn nhất là khi gieo rau xuống, cây chưa lên đã héo queo, héo quắt. Nước sinh hoạt còn thiếu lấy đâu nước tăng gia. Học tập các anh hải quân áp dụng những biện pháp tăng gia nài đảo để dành tứng tí nước một. Năm lần, bảy lượt mặc dù nâng niu, chăm bẵm nhưng cứ nhú mầm là cây chết. Sáng ra nắm mớ rau héo trên tay mà hy vọng cũng tiêu tan, tiếc bao nhiêu công sức đổ xuống sông, xuống biển. Nhưng bản lĩnh người lính thôi thúc anh không bỏ giữa chừng, quyết tâm làm bằng được. Nhiều anh em nản, có lúc phải làm một mình, kiên trì vì anh biết đất không phụ người nếu nắm chắc về thổ nhưỡng thời tiết thì sẽ làm được.
Sau nhiều lần thất bại rồi thành công cũng mỉm cười. Anh em kháo tai nhau “người có thể không tắm nhưng rau luôn đủ nước”. Rau được anh em nâng niu, che chắn sướng muối cẩn thận. Mẻ đầu tiên được thu hoạch trong niềm vui ngập tràn. Đó là kỷ niệm anh không thể nào quên.
Mới đó mà đã gần 18 năm gắn bó với Đài, từ ngày đặt viên gạch đầu tiên đến nay cơ sở vất chất của Đài đã tương đối đầy đủ, tuy đời sống anh em còn nhiều khó khăn nhưng luôn luôn đoàn kết, động viên nhau hoàn thanh tốt nhiệm vụ. Với vai trò chỉ huy, anh luôn xem đơn vị là nhà, nêu tấm gương cần cù trách nhiệm. Ít khi tự nói về mình, nhưng tôi biết là người có mặt đầu tiên, người chỉ huy và liên tục bám trụ nơi đây 18 năm, để có được như ngày hôm nay là cả một quá trình cố gắng cống hiến lớn của anh, người thủ lĩnh của Đài.
Trưởng thành từ gian khó
Đằng sau vẻ mặt bình thản của anh là một cuộc đời biết bao sóng gió. Dường như sóng gió quăng quật vào người đã quen nên anh luôn sẵn sàng đối mặt với nó. Cha mất khi anh vừa tròn mười ba tuổi. Một mình mẹ anh nuôi ba anh em khôn lớn. Là con cả trong gia đình dường như anh hiểu được nỗi vất vả nhọc nhằn của mẹ. Nhiều đêm chứng kiến mẹ khóc thầm mà anh không thể kìm được lòng mình. Những vết chân chim hằn sâu quanh đôi mắt bà, chiếc ào nâu giải nắng dầm sương đã ngã màu, chiếc nón sờn quoai vì bươn chải làm cho anh thấy càng thương mẹ mình hơn. Chính những vất vả, khó khăn đã làm bà già đi trước tuổi.
Học hết cấp ba, không như bạn bè thi đại học, anh tình nguyện nhập ngũ vì thấu hiểu hoàn cảnh gia đình khó khăn. Những năm tháng quân ngũ vì rèn luyện tốt anh được cấp trên cử đi học lớp tiểu đội trưởng quan sát mắt phục vụ lâu dài trong quân đội. Ra trường năm 2001, anh được phân công lên đài Đ75 canh trực từ đó đến bây giờ.
Tưởng như niềm vui gia đình đã trọn vẹn khi các em của anh đã trưởng thành có nghề nghiệp ổn định thì được tin sét đánh em trai anh đột ngột qua đời. Nỗi đau như chồng chất đè nặng trên đôi vai mẹ anh. Bà đã không chịu được cú sốc lớn nên đã đổ bệnh. Sức khỏe bà giảm sút đau yếu liên miên, thời gian đa phần là ở viện. Đứa em gái lấy chồng xa. Vợ anh công tác tại bệnh viện huyện nên hay trực đêm, hai đứa con nhỏ nhiều hôm đành phải gửi sang nhờ bà con trông giúp. Là trụ cột trong gia đình, anh luôn động viên vợ khắc phục khó khăn, chăm sóc mẹ già, sắp xếp chu toàn mọi công việc gia đình.
Hoàn cảnh là vậy nhưng chưa khi nào anh kêu khó, kêu khổ. Đài biên chế mấy anh em, mỗi mình anh là cán bộ phụ trách, còn lại là chiến sĩ nghĩa vụ quân sự, hai năm thực hiện xong là họ trở về địa phương. Những lớp chiến sĩ đến rồi đi, anh đều nhớ từng khuôn mặt, tính cách. Đóng quân xa nên ở đây nài nhiệm vụ là người chỉ huy anh còn đóng thêm nhiều vai khác như người cha, người mẹ, người anh và đôi khi bất đắc dĩ cả chuyên gia tâm lý. Khéo léo, gần gũi là điều cốt lõi để quản lý chiến sĩ. Vì vậy chiến sĩ Đài đã qua nhiều đợt nhưng chưa khi nào vi phạm kỷ luật, đơn vị luôn luôn ổn định. Anh tâm sự “cái khó nhất là quản lý con người, mỗi người một tính, mỗi người một vẻ, một sở thích, nhưng mình phải luôn quan tâm gần gũi anh em, tạo cho họ được không khí đầm ấm như một gia đình, vừa kỷ luật nghiêm, vừa giáo dục để anh em nhận ra lẽ phải”. Dường như có lẽ thế nên chiến sĩ của Đài luôn giữ nghiêm kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Là người vững về chuyên môn, giỏi về quản lý được cấp trên tin tưởng. Nhiều năm liền tham gia hội thao cấp Sư đoàn, dưới sự chỉ huy của anh, Kíp canh trực của Đài đều đạt giải cao. Công tác canh trực luôn đảm bảo, chưa khi nào để sót, lọt, chậm mục tiêu. Đài quan sát Đ75 luôn được cấp trên đánh giá cao trong đó có bản thân anh, người Đài trưởng mẫu mực.
Mười tám năm quân ngũ với từng ấy năm gắn bó với Đài, biết bao khó khăn vất vả nhưng với phẩm chất người lính đã hun đúc cho anh ý chí mạnh mẽ để vượt qua tất cả. Chiến sĩ của Đài ví anh như người tháo gỡ, người “vén khó khăn” định hướng cho họ những điều tốt đẹp mỗi khi gặp bế tắc. Đơn vị ví anh như người “vén mây” canh giữ cho bầu trời xứ Quảng được yên bình.
Võ Văn An
(Lớp Báo in 37B-BQP)
Cùng chuyên mục
Bình luận