Nhọc nhằn nghề nón: Giọt mồ hôi rơi trên lá nón (Kỳ 1)
(Sóng trẻ) - Sau 40 phút lái xe, tôi đến làng Chuông - làng cổ nức danh với nghề làm nón lá suốt hơn 3 thế kỷ. Những chiếc nón tuy đơn sơ nhưng chứa đựng cả hành trình gian nan, nhọc nhằn của những người đi buôn, làm “cầu nối” đưa lá nón về với làng nghề, âm thầm góp sức gìn giữ, bảo tồn “đặc sản” nón lá quê hương…
Nghề “tay nhặt lá trắng, chân vò lá xanh…”
“Lá nón không đơn thuần là nguyên liệu. Đó là cả tâm huyết, sự kiên nhẫn, tỉ mỉ của người buôn lá.” Đó là chia sẻ của cô Quách Thị Hải (thôn Tây Sơn, xã Phương Trung) với thâm niên 20 năm chuyên nghề sơ chế, buôn bán lá nón.
Đều đặn mỗi sáng, khoảng sân nhỏ của gia đình cô Hải lại rộn rã tiếng nói cười của những người thợ đang miệt mài từng công đoạn làm lá, tiếng tách tách từ cái lò diêm sinh cũ… tất cả âm thanh cùng hòa vang, chan chứa mối thâm tình của làng quê Bắc Bộ.
Chia sẻ về quy trình làm lá nón, cô Hải bộc bạch: “Bước làm lá là khó khăn, vất vả nhất, bởi hầu hết các công đoạn đều phải làm thủ công để đảm bảo lá nón không bị rách, dập, nát.”
Lá nón chủ yếu làm từ lá lụi, nhập từ vùng núi cao tỉnh Quảng Bình, người đi buôn phải tinh mắt lựa từng bó lá tươi, màu sáng và xanh đều, lá phải nhiều gân để tránh bị rách. Có lá nguyên liệu, họ đem về vò lá bằng chân trong cát trắng lẫn sỏi liên tục trong 30 phút đến khi đầu lá xoăn lại, mình lá mềm ra là đạt. Sau đó được các bà, các cô thoăn thoắt đôi tay xâu lại thành từng nắm lá (từ 45 đến 50 cành), chuẩn bị đem phơi.
Ra đường giữa trời nắng, ai cũng ngại, nhưng với người làm lá, đây là khoảng thời gian “lý tưởng”, bởi trời càng nắng, lá càng trắng và đẹp. Dọc đê tả Đáy, đi vài trăm mét lại thấy một người dân đang cặm cụi phơi lá nón trên triền đê. Những tia nắng rọi xuống “cánh đồng” lá nón, lấp lánh sắc xanh ngọc bích, vừa tươi mới vừa mượt mà.
Lóc cóc đội nón che khăn, cô Hải khệ nệ ôm túi lá to, đôi chân trần bước nhanh trên mặt cỏ, cánh tay sải dài vung từng nắm lá nón thành nhiều hàng trên triền đê. Người phụ nữ thôn quê như đang căng mình “cõng nắng, cõng gió” trên vai, cõng cả những vất vả mưu sinh để giữ nghề cổ truyền.
“Lá xanh phải phơi khô đến khi chuyển màu trắng bạc. Rồi tiếp tục được phơi sương đêm giúp làm mềm lá, thu về sấy trong lò diêm sinh để lá trắng lại. Lúc này lá nón dai và mềm hơn, nước không thấm vào lá, giúp nón có độ bền lâu hơn.”- Nhìn chỗ lá vừa phơi, ánh mắt cô Hải chứa chan niềm tự hào, từng giọt mồ hôi lấm tấm trên gương mặt rám nắng.
Các công đoạn cứ thế lặp lại, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của những người buôn lá nón làng Chuông.
Bấp bênh với nghề truyền thống
Lần khác, tôi đến chợ Chuông - chợ phiên độc đáo, tấp nập người đi buôn trong làng, từ chồng nón xếp cao ngất tới nguyên liệu làm nón… tạo nên khung cảnh nhộn nhịp sớm tinh mơ.
Trò chuyện với những người buôn bán lâu năm ở chợ, tôi cảm nhận sâu sắc nỗi lo mai một nghề truyền thống, những vui - buồn chuyện buôn lá nón. Họ nhớ những ngày nghề làm nón còn thịnh, người người nhà nhà làm nón, thu nhập chính trong gia đình cũng từ nón…
Đến chợ từ 5 giờ sáng, cô Lê Thị Nhân (thôn Quang Trung, xã Phương Trung) bán được trung bình 100 - 120 bó lá, giá từ 43.000 - 70.000 đồng, các ngày còn lại chủ yếu bán tại nhà hoặc gửi xe hàng buôn ở tỉnh. “Nếu lá xanh nhập về nhiều, sơ chế 2-3 ngày, đem bán một túi lá cũng được gần triệu đồng.” - Cô Nhân cho hay. “Lá nón còn chia làm ba loại: Loại đẹp làm nón tiền trăm, loại trung tầm vài chục, còn lại đem về làm nón Tàu, bán rẻ vài nghìn một chiếc bù chỗ lá xấu.”
Dù làm lụng cả ngày nhưng chưa bao giờ người đi buôn làm giàu được bằng nghề bán lá nón. Cái nghề mà quanh năm ai cũng cầu nắng vì lo mỗi trận mưa bão ập đến sẽ lại phải “ngồi chơi, xơi nước”, nếu không may thì mọi công sức đều “đổ sông, đổ bể”. “Mưa lũ làm giá lá xanh tăng cao, có nhập hàng về cũng chẳng buồn làm vì không có nắng phơi.” - Cô Nhân nói.
Sự trông chờ vào thời tiết khiến công việc không liên tục, gây ra nỗi lo thường trực trong cuộc sống người lao động. Vì vậy, đa số người dân nơi đây đều bám nghề buôn lá nón theo nếp nhà để lại, vừa là cách mua vui lúc rảnh rỗi, vừa kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Mỗi bó lá, mỗi chiếc nón là cách người dân làng Chuông duy trì bản sắc văn hóa, tạo sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Rời làng Chuông, cầm chiếc nón lá trên tay, tôi thấu rõ “sức nặng” từ tài hoa của người nghệ nhân, kiên định giữ vững làng nghề kết hợp với tâm huyết người đi buôn, luôn trân trọng chiếc nón quê hương, biểu tượng mộc mạc của văn hóa Việt Nam. Chợt nhớ đến tâm sự của cô Quách Thị Hải: “Mỗi miếng lá nón chứa bao nhọc nhằn, những giọt mồ hôi của người đi buôn nơi triền đê nắng gió. Cánh các cô bám nghề buôn lá chỉ mong chút sức nhỏ của mình góp phần vào hành trình giữ nghề làm nón cổ truyền của cha ông...”
-1756651692.png)
-1756652900.png)
