Một số nhận xét về hai mô hình quản lý đài huyện, thị ở các tỉnh bắc miền Trung
(Sóng Trẻ)- Khu vực bắc miền Trung được đề cập ở đây gồm ba tỉnh: Than h Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.Đây là ba tỉnhcó nhiều nét tương đồng về vị trí địa lý, dân cư và các điều kiện kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, hiện nay ở các địa phương này đang tồn tại những mô hình quản lý khác nhau đối với hệ thống đài huyện, thị. Những mô hình này đang bộc lộ nhiều ưu điểm và hạn chế, rất cần được nghiên cứu, khảo sát, đánh giá...
Vài nét khái quát
Cả 3 tỉnh
trên đều có diện tích tự nhiên rộng lớn với khoảng 80% diện tích là đồi núi;
dân số đông (Thanh Hoá 3,67 triệu người,
Nghệ An 3,1 triệu người và Hà Tĩnh gần 1,3 triệu người); có nhiều đơn vị
hành chính (Thanh Hoá 27, Nghệ An 19 và
Hà Tĩnh 12 huyện, thị xã, thành phố) và hơn 50% số huyện đều thuộc khu vực
miền núi và núi cao, biên giới; có nhiều dân tộc anh em chung sống (Thanh Hoá: Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Hoa;
Nghệ An: Kinh, Thái, Thổ, Mông, Khơ mú, O
Đu, Đan Lai; Hà Tĩnh: Kinh, Lào,
Mường)…
Do địa
hình phức tạp nên từ trung tâm của các tỉnh này tới trung tâm các huyện miền
núi có nơi cách xa từ 200 đến 250km. Đây là những yếu tố không chỉ ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi địa phương nói chung mà còn ảnh
hưởng không nhỏ đến việc phủ sóng phát thahh và truyền hình. Chính vì vậy, sự
tồn tại và phát triển của hệ thống các đài cấp huyện, thị, thành phố trực thuộc
tỉnh (gọi chung là cấp huyện, thị) chính là một điều kiện quan trọng để
hệ thống phát thanh và truyền hình hoạt động thông suốt.
Trong những năm qua, hệ thống các đài cấp huyện, thị trên địa bàn cả nước
nói chung và các tỉnh thuộc khu vực bắc miền Trung nói riêng đã trở thành một
lực lượng thông tin quan trọng. Cùng với chương trình của các Đài Trung ương và
đài tỉnh, các đài cấp huyện, thị đã góp phần rất quan trọng trong việc tuyên
truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật cuả Nhà
nước, phản ánh và đưa các Nghị quyết, chính sách vào cuộc sống, góp phần nâng
cao dân trí, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong quá trình giao lưu, hội nhập với các nước trong khu vực và cộng đồng
quốc tế, đài cấp huyện, thị cũng đã góp phần xây dựng hệ thống chính trị, tăng
cường dân chủ hoá trong đời sống ở các địa bàn, thực hiện tốt chức năng làm cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội với nhân dân, củng cố và tăng
cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo Tài
liệu Hội nghị về công tác quản lý Nhà nước đối với phát thanh & truyền hình
của Bộ Văn hoá- Thông tin (tháng 3-2005) thì đến thời điểm đó, cả nước có 612
đài phát thanh & truyền hình cấp huyện,
thị thì chỉ riêng ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh đã có 58 đài (Thanh
Hoá: 27 đài; Nghệ An: 19 đài; Hà Tĩnh: 12 đài).
Tuy nhiên,
cũng chính ở các địa phương này hiện vẫn đang tồn tại những mô hình quản lý
khác nhau đối với hệ thống các đài cấp huyện, thị. Điều này đang cho thấy những
ưu điểm và cả những nhược điểm, rất cần được khảo sát, nghiên cứu, đánh giá để
tìm ra mô hình tối ưu, tạo cơ sở khoa học cho những quyết định của các cấp quản
lý Trung ương và địa phương nhằm ngày càng phát huy thế mạnh của hệ thống này,
phục vụ ngày càng hiệu quả hơn các nhiệm vụ chính trị và đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của công chúng địa phương.
Hai mô hình quản lý hệ thống đài
huyện, thị ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh
Mô hình thứ nhất: hệ thống
đài huyện, thị trực thuộc đài tỉnh
Theo mô hình này, Đài tỉnh trực tiếp quản lý cả về con người, tài
chính, cơ sở vật chất, chuyên môn, nghiệp vụ đối với các đài cấp huyện, thị; Sở
thông tin - Truyền thông chỉ giữ vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước đối với hệ
thống này.
Mô hình thứ hai: đài huyện, thị trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện
Đây là mô hình đang được thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa (và ở hầu hết các
tỉnh khác trong cả nước). Theo mô hình này, Đài tỉnh chỉ quản lý các đài huyện,
thị về nghiệp vụ, còn Ủy ban nhân dân các huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh
trực tiếp quản lý về tài chính, con người. Sở thông tin - Truyền thông chỉ giữ
vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước.
Những mô
hình quản lý đối với hệ thống các đài cấp huyện, thị như trên đều có những ưu
điểm và nhược điểm riêng. Trên cơ sở phân tích những ưu thế và những hạn chế, khó khăn khó khăn của mỗi mô hình, bài
viết này sẽ cố gắng bước đầu nêu ra những giải pháp cụ thể với mong muốn góp
phần đưa hệ thống này vào nề nếp, tạo hiệu quả thiết thực và bổ ích cho công
chúng địa phương.
Về mô hình
quản lý ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
Nghệ An và
Hà Tĩnh là hai tỉnh thuộc tỉnh Nghệ-Tĩnh trước đây. Khi còn là tỉnh Nghệ -Tĩnh,
toàn bộ hệ thống đài truyền thanh, truyền hình huyện đều do tỉnh quản lý. Từ
năm 1990, khi truyền hình phát triển mạnh, do điều kiện địa phương phức tạp,
việc thu sóng truyền hình Quốc gia khó khăn, một số huyện trong tỉnh đã đầu tư
ngân sách mua sắm máy phát lại truyền hình và hình thành các đài truyền thanh -
truyền hình cấp huyện.
Việc mua
sắm trang thiết bị nêu trên đã nảy sinh những bất cập về quản lý phương tiện,
kỹ thuật tiếp sóng và sản xuất chương trình của đài huyện. Biểu hiện rõ nhất là
sự tuỳ tiện đầu tư lắp đặt các thiết bị thu phát truyền hình. Việc thu phát
truyền hình thì tuỳ theo khả năng kinh tế cũng như sự quan tâm của lãnh đạo
từng huyện. Không có ai đứng ta qui hoạch tần số và kế hoạch sản xuất các
chương trình của đài huyện, nhất là
Sau khi
tách tỉnh, lãnh đạo hai đài Phát thanh và Truyền hình (PT&TH) Nghệ An và Hà
Tĩnh đã có văn bản trình UBND tỉnh về
việc bàn giao các đài huyện cho đài tỉnh quản lý, từ đó hình thành mô hình
Đài tỉnh trực tiếp quản lý các đài huyện, thị.
Qua quá
trình hoạt động, mô hình quản lý này đã đạt được một số thành quả sau:
- Trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên toàn ngành
không ngừng được nâng cao; có điều kiện để điều tiết toàn ngành; đồng thời đài
huyện còn là môi trường tốt cho việc luân chuyển phóng viên từ đài tỉnh tăng
cường cho các đài huyện nhằm nâng cao kiến thức, vốn sống thực tế để tuyển chọn
được đội ngũ cán bộ, phóng viên giỏi cho đài tỉnh.
- Phối hợp
được vai trò quản lý, điều hành của ban giám đốc đài tỉnh với cấp uỷ, chính
quyền, thành phố, thị xã trong việc tuyên truyền các nội dung phục vụ nhiệm vụ
chính trị; Quản lý được thời lượng tiếp sóng, thống nhất theo chỉ tiêu kế hoạch
và ngân sách của đài tỉnh giao hằng năm.
- Đài
huyện đóng góp tin bài cho đài tỉnh một cách thường xuyên, toàn diện, kịp thời,
nhất là các thông tin thời sự xảy ra ở cơ sở làm cho chương trình của đài tỉnh
phong phú về nội dung. Các chỉ tiêu hằng năm của đài tỉnh giao cho đài huyện
sát với biên chế đội ngũ phóng viên và tình hình thực tế của mỗi địa bàn.
- Đối với
các huyện miền núi không thu được sóng của đài tỉnh thì các chương trình của
đài tỉnh được in, sao băng chuyển xuống cho các huyện phát sóng, phục vụ kịp
thời nhu cầu của nhân dân, nhất là các chương trình tiếng Hơ mông, và tiếng
Thái .
- Trang bị
về cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật của hệ thống đài huyện, thị và đài tỉnh
đồng bộ, tạo điều kiện thuận tiện cho việc quản lý, khai thác, sửa chữa và có
khả năng điều tiết, bổ sung trong toàn ngành.
- Kinh phí
hoạt động thường xuyên cho đài huyện được cung cấp ổn định. Nài ra, có thể
khai thác thêm sự đầu tư, hỗ trợ của UBND các huyện; Các chế độ chính sách đối
với hoạt động đặc thù của báo chí vẫn được đảm bảo. Thêm vào đó, khi đài tỉnh
có mức thu về thông tin quảng cáo và dịch vụ cao sẽ tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức, lao động trong toàn
ngành (mỗi năm bình quân mỗi người được nhận thêm 3 tháng lương).
- Tập
trung được sự chỉ đạo phát triển hệ thống truyền thanh cơ sở (hệ thống đài xã,
phường, làng, thôn, bản, thị trấn…) và tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền
thanh hoá.
Thực tế
cho thấy mô hình Đài tỉnh trực tiếp quản lý các đài huyện, thị ở Nghệ An và Hà
Tĩnh trong nhiều năm qua là có hiệu quả nhiều mặt. Tuy nhiên, mặt trái của nó
là một số cấp uỷ, chính quyền địa phương tỏ ra thiếu quan tâm với các hoạt động
của đài huyệ, thị. Sự thiếu quan tâm đó được thể hiện cụ thể trong việc tham
gia đầu tư kinh phí cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Trước một số sự kiện
trọng tâm, đột xuất, mặc dù đài huyện, thị phải huy động nhân lực, trang thiết
bị kỹ thuật để tác nghiệp nhưng lại không được cấp uỷ, chính quyền địa phương
hỗ trợ về tài chính. Điều đó đã có những ảnh hưởng không tốt đến nhu cầu hưởng thụ thông tin của công chúng, nhất là
công chúng các huyện miền núi, vùng sâu và vùng cao.
Vốn là hai
tỉnh có gần 50% số huyện thuộc khu vực miền núi và núi cao, lại có địa hình
phức tạp nên việc phủ sóng các chương trình truyền hình rất khó khăn. Trong
tình hình đó, nhiều đài huyện đã đề nghị đài tỉnh cho phép được sản xuất và
phát sóng các chương trình truyền hình tự sản xuất để đáp ứng nhu cầu thông tin
trên địa bàn của công chúng. Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, Nhà nước vẫn
chưa có một văn bản nào qui định rõ về việc sản xuất chương trình truyền hình
của đài cấp huyện, thị. Chính vì vậy, mặc dù là đơn vị quản lý toàn diện, nhưng
đài tỉnh vẫn không có căn cứ pháp lý để có chính sách đầu tư trang thiết bị kỹ
thuật cho việc sản xuất chương trình truyền hình của các đài cấp huyện, thị do
mình quản lý.
Còn có một
vấn đề khác: Do không được khẳng định rõ là cơ quan báo chí, các phóng viên của
đài huyện không được xét cấp Thẻ nhà báo. Đó là một trong những lý do khiến
nhiều phóng viên đài huyện, thị không yên tâm, muốn được chuyển công tác về đài
tỉnh. Đồng thời, chính đài tỉnh cũng gặp khăn khi muốn điều động phóng viên
luân chuyển về đài huyện, thị…
Về mô hình
quản lý đài huyện, thị ở Thanh Hoá
Như chúng
tôi đã nêu ở trên, đây cũng là mô hình quản lý đài huyện, thị phổ biến nhất ở
nước ta hiện nay. Theo đó, đài cấp huyện, thị ở Thanh Hoá là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc UBND huyện, thị. Nhieemjj vụ của các đài huyện, thị là thông tin,
tuyên truyền về các hoạt động của địa phương trên sóng phát thanh huyện; tổ
chức hướng dẫn cho các đài truyền thanh xã tiếp âm, phục vụ sự chỉ đạo, điều
hành công việc của cấp uỷ, chính quyền địa phương và nhu cầu thông tin của nhân
dân. Các đài huyện, thị tham mưu giúp UBND huyện, thị trong việc quản lý các
đài truyền thanh xã, phường, thị trấn.
Theo mô
hình này, các đài cấp huyện, thị chịu sự hướng dẫn, giúp đỡ về mặt kỹ thuật và
nghiệp vụ chuyên môn của đài PT&TH tỉnh. Các đài huyện, thị được tham gia
viết bài cộng tác, đưa tin tuyên truyền về tình hình kinh tế, chính trị địa
phương mình trên cả hai làn sóng phát thanh và truyền hình của đài tỉnh.
Từ mô hình
quản lý trên, có ý kiến cho rằng, do đài tỉnh không trực tiếp quản lý toàn
diện, nên các phóng viên đài huyện luôn gặp khó khăn trong việc cộng tác tin,
bài với đài tỉnh. Tuy nhiên, theo báo cáo của đài PT&TH tỉnh Thanh Hoá thì
phần lớn các bản tin thời sự trong ngày đều có sự đóng góp của các đài cấp
huyện, thị. Theo báo cáo tổng kết hoạt động phát thanh truyền hình năm 2008 của
đài PT&TH tỉnh Thanh Hoá, trong mỗi bản tin thời sự phát thanh, đài tỉnh sử
dụng hơn 30% thông tin của hệ thống đài cấp huyện, thị. Tỷ lệ này trong các bản
tin truyền hình là 15% tin. Nài ra, hằng tháng các đài cấp huyện, thị đều có
chuyên mục riêng trên cả hai sóng phát thanh và truyền hình. Chính vì vậy, bất
cứ có thông tin gì mới, đài tỉnh đều cập nhật được và phục vụ công chúng địa
phương trong thời gian nhanh nhất và kịp thời nhất.
Theo Báo
cáo về hoạt động của hệ thống đài huyện, thị ở tỉnh Thanh Hoá thì mỗi ngày,
các đài này sản xuất từ 1 đến 2 bản tin thời sự, mỗi bản tin có thời lượng 15
phút, được bố trí phát lại từ 1 đến 2 lần trong ngày. Nội dung chương trình gồm
phần tin, các thể loại bài, thông báo chỉ đạo công tác của Huyện uỷ, HĐND, UBND
huyện. Tất cả các bản tin này đều có sử dụng nhạc hiệu, nhạc cắt, nhạc mục và
các bài hát xen. Một số đài đã dàn dựng được chương trình phát thanh trên máy
vi tính và có thể đưa vào chương trình những phát biểu và tiếng động hiện
trường. Nhìn chung các chương trình phát thanh do đài huyện sản xuất tương đối
phong phú và có tính hấp dẫn nhất định (1).
Các đài
cấp huyện, thị ở Thanh Hoá còn chỉ đạo và hướng dẫn cho đài truyền thanh cấp xã
thuộc địa bàn huyện tổ chức thực hiện việc tiếp âm các chương trình phát thanh
của đài huyện, coi đây là một nội dung bắt buộc trong hoạt động của đài truyền
thanh xã. Nhờ vậy, nhiều công việc của huyện uỷ, HĐND, UBND huyện chỉ đạo các
xã đều được thông qua hệ thống phát thanh của huyện.
Hiệu quả
hoạt động của đài cấp huyện, thị ở Thanh Hoá hiện nay được cấp uỷ, chính quyền
của các huyện đánh giá cao và do đó các đài đã được huyện quan tâm đầu tư phát
triển.Qua quá trình hoạt động, phạm vi tuyên truyền của huyện, thị mở rộng hơn,
công tác quản lý truyền thanh cơ sở nhiều thuận lợi, đảm bảo tốt nhu cầu thông
tin và nghe đài của nhân dân trong huyện.
Về mối
quan hệ của đài huyện, thị với đài tỉnh, hàng năm Đài tỉnh vẫn phải cùng với
các huyện, thị xã, thành phố xây dựng qui hoạch, kế hoạch củng cố phát triển sự
nghiệp phát thanh & truyền hình; chỉ đạo hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ;
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên làm việc
tại các đài truyền thanh - truyền hình cơ sở; kiểm tra uốn nắn những sai sót,
xử lý các sự cố kỹ thuật để duy trì hoạt động của các đài được thường xuyên, liên tục…
Tuy nhiên,
mô hình quản lý này cũng cho thấy một số nhược điểm.
Không
thống nhất về tên gọi
Hiện nay,
trong số 27 đài cấp huyện, thị, thành phố ở tỉnh Thanh Hoá vẫn không có sự
thống nhất về tên gội. Có nơi gọi là “đài truyền thanh”; có nơi gọi là “đài
truyền thanh, truyền hình”; có nơi lại gọi là “đài phát thanh và truyền hình”.
Thậm chí có nơi lại trưng biển là “Đài truyền hình huyện”.
Mặc dù là
một cơ quan hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ của cơ quan báo chí (nghĩa là
có phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên và sản xuất ra các chương trình,
bản tin thời sự, các chuyên mục giải trí…) nhưng đài huyện, thị vẫn không được
coi là cơ quan báo chí.
Kinh phí
hoạt động cho các đài huyện, thị xã, thành phố hiện còn nhiều bất cập. Hệ thống
đài huyện, thị cũng có thiết bị kỹ thuật có giá trị lớn, hằng năm phải duy tu,
bảo dưỡng, phải chi nhuận bút…nhưng mức kinh phí chi cho hệ thống đài này cũng
chỉ như kinh phí chi cho các phòng ban khác của huyện, thị xã. Cán bộ, phóng
viên, công nhân viên đài huyện không được hưởng lương theo công việc đang làm
mà chỉ được hưởng lương theo ngạch nhân viên hành chính hoặc nhân viên kỹ thuật điện, nước của cơ quan huyện, thị xã, thành
phố.
Có một điều
cần lưu ý là trong “Báo cáo đề dẫn” của Bộ Văn hóa – Thông tin tại Hội nghị toàn quốc về công tác quản lý nhà nước đối
với phát thanh, truyền hình (2005) thì việc
phân cấp quản lý nhà nước đối với các đài phát thanh – truyền hình địa phương được đề xuất như sau:
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quản lý đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh.
- Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh quản lý đài phát thanh – truyền hình cấp huyện.
- Uỷ ban dân dân cấp xã, phường quản lý trạm truyền
thanh xã, phường.
Cũng trong Hội nghị này, Bộ Văn hoá - Thông
tin cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động truyền thanh, truyền hình địa phương như: thống nhất mô hình quản lý và hoạt động của các đài cấp huyện; xây dựng
cơ chế, chính sách thích hợp để huy động các nguồn tài chính hợp pháp hỗ trợ
hoạt động của các đài truyền thanh, truyền hình địa phương, đặc biệt là các đài
cấp huyện; nguồn vốn đầu tư và phát triển của đài truyền thanh, truyền hình địa
phương do ngân sách địa phương thực hiện, đối với những địa phương khó khăn,
ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần (2).
Cũng cần
nhấn mạnh rằng: nài hai mô hình quản lý đối với các đài cấp huyện, thị như
trên, trong thực tế ở nước ta còn có mô hình thứ ba, theo đó đài huyện
do Phòng Văn hóa - Thông tin huyện, thị trực tiếp quản lý (như vậy, trưởng đài
huyện được ăn lương tương đương với phó phòng cấp huyện). Mặc dù vậy, cho đến
thời điểm này ở nước ta vẫn chưa có một cơ quan nào tổ chức điều tra một cách
kỹ càng về hoạt động của các đài hệ thống cấp huyện, thị để trên cơ sở đó đề
xuất một mô hình quản lý thích hợp.
Trong bối cảnh đó, chúng
tôi mạnh dạn nêu ra một số đề xuất sau
đây:
- Cần có sự thống nhất về
tên gọi của đài huyện, thị (theo chúng tôi, nên gọi là đài phát thanh và
truyền hình huyên (thị, thành phố)là cách gọi hợp lý và đúng với thực tế
nhất..
Ngược dòng lịch sử, trước
đây nhiều nơi gọi là đài truyền thanh
hoặc đài truyền thanh- truyền hình gắn
với từng đơn vị hành chính cụ thể, vì các đài này chỉ có nhiệm vụ tiếp sóng lại
các chương trình của đài trung ương và đài tỉnh. Nhưng thời gian đây, do điều
kiện kinh tế phát triển, có nơi do địa hình hiểm trở nên các địa phương đã đầu tư
trang thiết bị kỹ thuật và nguồn nhân lực để sản xuất các chương trình (chủ yếu
là phát thanh, một số huyện do địa hình hiểm trở đã sản xuất các chương trình
truyền hình) phục vụ nhu cầu hưởng thụ thông tin của công chúng tại địa bàn.
Căn cứ vào hoạt động thực tế, nên gọi là đài “phát thanh và truyền hình”.
- Cần đưa hệ
thống đài huyện, thị, thành phố vào danh mục cơ quan báo chí. Nếu theo nguyên tắc tiếp nhận thông tin thì người ta quan
tâm đến những vấn đề như: “nhà tôi, làng tôi, xã tôi, huyện tôi”... hơn là
những vấn đề của “nhà bạn, làng bạn, xã bạn, huyện bạn”. Vì vậy, ở một mức độ
nào đó, các phóng viên đài huyện, thị, thành phố đã đáp ứng được những vấn đề
mà đài tỉnh, đài Trung ương không làm được. Những thông tin mang hơi thở của
cuộc sống như vậy nếu không có đội ngũ phóng viên này cung cấp chắc chắn rằng
các cấp uỷ, chính quyền địa phương cũng như công chúng khó có thể nắm bắt được
để điều chỉnh chính sách, kế hoạch sát với cuộc sống thực tiễn. Hiệu quả, vai
trò được thể hiện khá rõ như vậy, tại sao nhiều năm qua hệ thống này vẫn chưa
được công nhận là cơ quan báo chí và các phóng viên không được cấp thẻ nhà báo?
- Bộ Thông tin và Truyền
thông phải là cơ quan chủ trì trong việc khẳng định mô hình quản lý đài cấp
huyện, thị. Chúng ta cần đánh giá chính xác vai trò, tác dụng, hiệu quả hoạt
động của các đài phát thanh và truyền hình cấp huyện, thị để có mô hình tổ chức
bộ máy thống nhất trong cả nước; qui định chế độ, chính sách, kinh phí hoạt
động thường xuyên. Cần qui định rõ cơ quan nào ở cấp tỉnh có trách nhiệm quản
lý, chỉ đạo mọi mặt hoạt động của hệ thống quan trọng này.
Những khó khăn, vưỡng mắc hiện nay của hệ thống các đài huyện thị ở các
tỉnh bắc miền Trung nói riêng và các tỉnh thành khác trong cả nước nói chung
nếu sớm được khắc phục, tháo gỡ; chắc chắn sẽ tạo ra những cơ sở quan trọng cho
hệ thống này ngày càng phát triển, trở thành một kênh thông tin nhanh nhất,
đúng đối tượng nhất, phục vụ đúng cụm dân cư nhất, có thể giúp các địa
phương và truihng ương có căn cứ để hoạch định chính sách kinh tế, văn hoá, xã
hội phù hợp với nhịp sống của địa phương./.
Mai
Huyên,
Cao học
Báo chí K.13
Chú thích:
1.Báo
cáo tổng kết hoạt động phát thanh và truyền hình năm 2008 của Đài PT&TH
Thanh Hoá
(2).Báo cáo đề dẫn (ngày 19-1-2005) của Bộ Văn hóa - Thông tin tại
Hội nghị toàn quốc về công tác quản lý nhà nước đối với phát thanh, truyền
hình.. Tr.9.