Nghị lực Việt nơi xứ Lào

(Bút ký tham gia cuộc vận động sáng tác VHNT “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Nhân Quốc Khánh Lào 02/12)

 
Tôi gặp Thoong Phị La Vông, một người Lào gốc Việt khi anh theo đoàn Hội đồng hương Việt Kiều Xiêng Khoảng sinh sống tại thủ đô Viêng Chăn hành hương về báo công với Bác. Sau chuyến gặp tình cờ ấy, tôi đã sang đất Lào để tìm anh…

Thoong Phị La Vông, dáng tầm thước, gương mặt phúc hậu, dễ mến, lịch lãm trong bộ trang phục cựu chiến binh Lào đầy những tấm huân, huy chương. Mái tóc thoảng điểm sợi bạc chải miết sang trái và đôi mắt đượm phớt một nét gì đó rất dung dị. Mấy cái nếp nhăn nơi khóe mắt kéo dài mỗi khi anh cười.

Anh sinh năm một chín năm hai tại tỉnh Khỏn Kèn thuộc Đông Bắc Thái Lan. Năm tám tuổi Thoong Phị La Vông theo mẹ cùng dòng người hồi hương theo tiếng gọi của Bác Hồ về xây dựng đất nước. Về Việt Nam anh được đặt tên là Hoàng Diểu. Học hết cấp ba tại thành phố Nam Định, anh vào làm công nhân nhà máy dệt. Thời gian ấy anh cưới chị Nguyễn Minh Hiền người cùng phân xưởng. Hai người mê nhau qua một lần hội diễn tiếng hát công nhân. Những năm cực kỳ khó khăn bởi cơ chế bao cấp, hai vợ chồng nai lưng làm vẫn không đủ ăn.

Năm một chín tám mươi, anh chị sinh cháu đầu lòng Hoàng Anh Anh, một chín tám ba, sinh thêm cháu Hoàng Hà, hai niềm vui khôn tả, nhưng cũng thêm gánh nặng cho cái gia đình công nhân nho nhỏ thời bấy giờ. Thế rồi tai họa ập đến bất ngờ, cháu Hoàng Anh Anh mất chưa đầy năm tuổi. Gia đình suy sụp, mấy năm sau lại mới  sinh cháu Hoàng Hùng. Năm miệng ăn cộng thêm mẹ già tàn tật buộc Hoàng Diểu phải động não.

Hành trình và nước mắt

Đã bao lần anh hỏi mẹ về  người bố của mình. Hiện ông ở đâu? Cớ sao ông bỏ mặc mẹ con bơ vơ cực khổ. Hồi lên tàu về Việt Nam, mẹ anh đã bị tai nạn và phải cưa mất một chân khi đang còn son trẻ. Vậy là từ cái cơ cực này thêm vào cơ cực khác. Tuổi thơ anh được học hành bài bản kiến thức từ mái trường xã hội chủ nghĩa.

Cho đến bây giờ anh vẫn thuộc lòng những bài thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Giang Nam... Có lúc anh còn dí dỏm liên hệ bài thơ “Con cá chột nưa” của nhà thơ Tố Hữu trong sự đời và anh nói, cái hồi còn học phổ thông, anh thích nhất chuyện về hình ảnh Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước khi Người chỉ hai bàn tay trắng. Có người hỏi Bác, đi ra nước nài thì phải có tiền, phải thật nhiều tiền mới có thể sống được. Bác đã quả quyết và giơ hai bàn tay lên: Tiền đây!.. Chuyện Bác Hồ ám ảnh anh mãi vì khi lớn lên anh vốn quyết chí sang Thái Lan tìm bố, mà nhà thì quá nghèo. Anh nghĩ, đất nước mình đã hoà bình thống nhất, mình ra đi chỉ với một niềm hạnh phúc riêng tư nho nhỏ nhưng khó khăn lắm thay, đó là muốn nhìn thấy mặt bố, muốn có một người bố như bao người khác trên đời này.

Bố anh là một thương gia người Tàu định cư ở Thái Lan. Ông say sưa kiếp lãng du kinh doanh khắp đất Thái. Khi mẹ anh sinh ra anh thì ông còn mải miết với những thương vụ và chưa hề được nhìn mặt con. Đến khi đã trở thành tỷ phú ông mới quay về tìm vợ con thì đã không còn thấy ai. Ông đi khắp các tỉnh Đông bắc Thái tìm hỏi và chỉ biết là năm mẹ con đã theo đoàn Việt kiều hồi hương.

Khi đất nước Lào giải phóng, ông từ Thái Lan sang xin chính phủ Lào cho phép đầu tư xây dựng khách sạn năm sao đầu tiên ở Nam Lào. Sau này nghe phong phanh là bố anh còn sống, Hoàng Diểu đã quyết tìm bố cho bằng được. Nhưng hai cha con anh như mặt trăng với mặt trời. Khi Hoàng Diểu sang Thái thì ông lại đã ở Nam Lào. Khi Hoàng Diểu xuống Nam Lào thì ông lại đã ở bên Thái. Đến lúc anh không còn tiền để đi lại nên đành phải quay về Nam Định.

Trở lại với cuộc sống lam lũ nơi phố dệt đông đúc, cùng hai đứa con nheo nhóc đói khổ, Hoàng Diểu lại quyết tâm tìm cha một lần nữa, lần này anh bàn với vợ cầm cố ngôi nhà để lấy mấy cây vàng lên đường sang Lào một lần nữa. Trước hết phải tìm cách lập nghiệp sau đó có điều kiện mới tiếp tục tìm bố.

Ban đầu anh thuê một căn gác xép nhỏ, chật chội ở góc chợ Đông Pha Lan tại thành phố Viêng Chăn. Ở đây có rất nhiều người Việt sa cơ lỡ vận tha hương. Ngày đi làm thuê đủ nghề tối về chui rúc vào cái chảo lửa về mùa hè, lạnh giá về mùa đông. Buổi tối anh mua sách tranh thủ tự học tiếng Lào. Qua gần một năm, anh đã có thể sử dụng tiếng Lào thành thạo, lúc này anh lại quyết tâm đi tìm bố. Vẫn là "Mặt trăng" và "Mặt trời", anh vừa xuống đến Nam Lào xa gần nghìn cấy số thì có người bảo ông đã đi Viêng Chăn. Anh lại tức tốc quay về Viêng Chăn và biết bố anh đang ở trong một khách sạn hạng sang, anh phải nhờ người dẫn đường trong vai một thương gia đến để ký kết hợp đồng. Liên hệ mãi, ông bố cũng chỉ cho người giúp việc ra tiếp chuyện, mãi vài ngày sau ông mới xuất hiện. Lúc đó vừa trọn năm năm, kể từ ngày anh đặt chân sang đất Lào tìm bố.

Ngay từ cái nhìn đầu tiên anh đã có một cảm giác khó tả chạy ran khắp người. Một sự linh cảm về tình phụ tử linh thiêng mà anh phải cắn chặt môi mới không thốt nên lời. Nhưng anh đã kịp trấn tĩnh. Anh mải ngắm nhìn con người vô tâm này đã để giọt máu của mình lưu lạc suốt hơn ba mươi năm qua. Chính con người này đã để mẹ con anh có những ngày tháng cùng cực thiếu vắng người cha. Chính con người này mà anh đã bán cả gia tài để miệt mài tìm kiếm suốt năm năm trên xứ người, không ai thân thích, không nơi nương tựa. Nhưng cuối cùng anh cũng đã thốt lên trong nghẹn ngào nước mắt: - Cha! Cha ơi con nhớ cha lắm, ngày nào con cũng đi tìm cha, con mong có cha.- Lúc ấy Hoàng Diểu chỉ thông thạo tiếng Lào, một số âm Thái, anh vẫn chưa rõ lắm, phải nhờ người đi cùng phiên dịch lại.

Những tưởng nhà tỷ phú có chút mủi lòng, ông gạt ngay và tỏ ra rất nghi ngờ. Một "Thương gia" đến từ Việt Nam mà khóc lóc thế này thì không thể ký kết các hợp đồng làm ăn. Ông khoát tay ra hiệu cho người thư ký tiễn khách.

Nghị lực Việt

Hoàng Diểu ra về trong nỗi thất vọng và tủi hờn não nề. Suốt mấy hôm liền anh nằm vật vã tưởng như tuyệt vọng. Mình đã tốn bao công sức để rồi thất bại cay đắng, không còn chút hy vọng. Anh có cần gì đâu, giầu sang phú quý nơi ông chăng? Cái anh cần là tìm lại bố để thông báo với mẹ anh rằng, bố anh nay vẫn còn sống, thế thôi và anh cũng có bố như bao người khác.

Trở về lại căn gác xép, nỗi buồn tủi và giận hờn đan xen làm anh càng tiều tuỵ và định bụng trở về. Nhưng anh lại nghĩ bây giờ mà trở về thì ngôi nhà đã cầm cố, lấy tiền đâu mà chuộc lại. Mà mình thảm hại thế này sẽ là gánh nặng cho cả nhà, vợ con nheo nhóc, mẹ thì bệnh tật già yếu. Thế là anh quyết tâm ở lại Viêng Chăn. Anh m góp những đồng tiền kiếm được trong những chuyến làm thuê để mua một bộ đồ cắt tóc. Hàng ngày kiếm ăn bằng nghề này cũng đủ ăn và tiết kiệm đôi chút. Thỉnh thoảng có vài ông khách mách bảo những ngôi nhà miếng đất cần bán, là anh môi giới cho những người khác. Anh đã say sưa với công việc này từ năm một chín chín hai đến một chín chín bảy. Rồi đồng tiền cũng đã kha khá, anh mới nghĩ về Nam Định đón vợ con cùng sang.

Khỏi phải nói hết những kham khổ cơ cực nơi đất khách quê người vật lộn với miếng cơm manh áo, và ...cuộc đời đã mỉm cười với anh khi chính phủ Lào cho phép anh mua một trăm héc ta đất rừng hoang hóa, cách thủ đô Viêng Chăn chừng bảy mươi cây số để làm trang trại.

Hàng ngày vợ chồng anh chở nhau trên chiếc xe máy tòng tọc ra đi từ mờ sáng, phát, cuốc, đốt, dọn cho đến tối mịt mới về. Sau đó anh về quê Nam Định thuê thêm nhân công cùng làm. Cứ thế, khi hình hài của một trang trại đã bắt đầu nhú mầm, Hoàng Diểu mới bắt đầu làm thủ tục vay vốn để đầu tư. Cũng may vì làm nghề cắt tóc mà anh quen được nhiều quan khách của chính phủ Lào, các vị ở Bộ chính trị rồi các bộ ngành thường lui tới cắt tóc.

Tình cờ, ngài Khăm Pan Phị La Vông, tỉnh trưởng tỉnh Bô Ly Khăm Xay  đến cắt tóc rồi nhiều lần tỉ tê. Hai người tâm đầu ý hợp kết nghĩa anh em. Từ đó Hoàng Diểu có cái tên Lào là Thoong, lấy họ Phị La Vông cùng họ với ngài Khăm Pan và nhập Quốc tịch Lào. Những năm ấy, nài những điều may mắn, anh còn có hai vinh dự lớn trong đời là đã từng cắt tóc cho đương kim chủ tịch nước Nu Hắc Phôm Sa Vẳn và nguyên chủ tịch nước Su Pha Nu Vông.

Để ghi ơn đất nước Lào, quê hương thứ ba nơi gia đình anh định cư, anh đã đặt tên cho các con với những cái tên Lào đáng yêu như Hoàng Hà thành Sỷ Đà Phị La Vông, Hoàng Hùng thành Sổm Bun Phị La Vông và bé Kỳ Diệu mới sinh thêm sau này tại Viêng Chăn là Bua Khăm Phị La Vông. Riêng Bua Khăm, cả nhà vẫn thường gọi yêu là Nủ, nghĩa là con chuột nhắt đáng yêu.

Khi Hoàng Diểu đã xây dựng được trang trại một cách quy mô bề thế, và trực tiếp mục sở thị trang trại của anh, các đồng chí lãnh đạo Trung ương Lào đã quyết định cho anh được vay vốn một cách bình đẳng như mọi công dân Lào khác và cho phép anh mua thêm một nghìn hai trăm héc ta đất rừng nữa. Vì Lào rất khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư vào Lào, miễn là nhà đầu tư phải cam kết tạo thu nhập cho người dân trong vùng, mở mang và nâng cao đời sống người dân, đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội và giữ sạch môi trường. Mà trang trại của Hoàng Diểu lại hội đủ những tiêu chí ấy.

Khi đã vay được vốn,  điều đầu tiên là anh mở con đường nối từ Quốc lộ Mười Ba vào trang trại, rồi tiếp đó là làm trạm điện. Trong vùng trang trại có hơn sáu mươi hộ dân thuộc bộ tộc Lào Thơng quanh năm thiếu đói và quen nghề đốt rừng tra hạt, anh đã kết nạp họ trở thành thành viên trồng rừng và trả lương cho họ. Một trăm phần trăm hộ ở nhà lụp xụp, rách nát được anh xây cho mỗi hộ một ngôi nhà trị giá bảy ngàn đô la, rồi kéo điện về tận nhà, cho giống trồng rau, nuôi bò và bao tiêu sản phẩm. Mỗi tháng anh còn chu cấp cho mỗi khẩu mười lăm cân gạo, mỗi hộ hai trăm ngàn kíp, mỗi ngày hai mươi lít nước sạch. Theo đó kêu gọi xây dựng ngôi trường cho trẻ, người ốm đau được ạnh giúp đi chữa bệnh. Dần dà những người có thói quen phá rừng trước đây đã trở thành người giúp anh giữ rừng.

Hôm tôi cùng anh vào trang trại, trên đường đi, những người dân Bản Nỏng Bua thấy xe anh đều giơ tay vẫy vẫy. Từ trẻ nhỏ đến người già, nhiều người chạy đến xin được bắt tay anh và anh phải mất rất nhiều thời gian dừng hỏi han từng người. Ngày nào cũng lên với họ mà ngày nào cũng thân mật đon đả như vậy. Họ coi anh như vị cứu tinh của bản. Ngài Khăm Mừng, tỉnh trưởng tỉnh Viêng Chăn nói với tôi: người như Thoong Phị La Vông này ở Lào hiếm lắm, khi anh làm trang trại, tỉnh chúng tôi được nhiều cái lợi, thứ nhất anh đã đem lại một môi trường thanh sạch, cải thiện nâng cao đời sống người dân nơi đây, rồi còn mở mang dân trí. Thứ hai đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, vì người dân no đủ họ sẽ không còn phá rừng, không trộm cắp và không di dịch cư tự do... Ngài Khăm Mừng tỏ ra rất khâm phục và ông còn cho rằng, nhờ có trang trại của Thoong Phị La Vông mà tỉnh Viêng Chăn trở thành điểm đến của du khách nhiều quốc gia, đây là niềm tự hào cho tỉnh chúng tôi. Trước đây, người nước nài chỉ biết thành phố thủ đô Viêng Chăn mà không biết rằng bên cạnh đó còn có tỉnh Viêng Chăn.

Dạo trong rừng cây Trầm hương của Thoong Phị la Vông phải đi bằng ô tô hết nửa buổi. Bà Hoàng Diệu Tuyết, phó chủ tịch thường trực Hội nông dân Việt Nam đặc biệt ngỡ ngàng trước sự hoành tráng, bề thế và quy mô, quy củ của một đại trang trại dưới sự điều khiển của một cái đầu đầy ý chí, bản lĩnh và nhân hậu của Thoong Phị La Vông.

Theo đánh giá của các nhà kinh tế thì đại trang trại này được ước tính trị giá tài sản hơn trăm triệu đô la Mỹ. Tôi thực sự choáng ngợp bởi bạt ngàn cây trầm hương đã cao thẳng vút với mỗi cây đều chi chít những nốt sần tụ trầm. Trên các khu đồi, trầm hương thành những hàng lối liên tiếp nhau rất đẹp và sạch, tạo một khu nghỉ mát sinh thái sang trọng. Trên mỗi đồi trầm được xây những ngôi biệt thự đầy đủ tiện nghi cho du khách viếng thăm.

Thoong Phị La Vông cho biết, cả khu rừng trầm này có hơn sáu trăm ngàn cây và năm hai ngàn lẻ chín này sẽ bắt đầu khai thác. Trước khi chúng tôi đến anh vừa cho công nhân tiêm vào cây hàng chục tấn thuốc kích thích, loại thuốc cực kỳ đắt tiền phải nhập từ những nước có công nghệ trồng trầm tiên tiến nhất. Đồng hành với cây trầm, anh trồng hơn bốn trăm héc ta cây Bạch đàn đã cao vút. Anh còn chắn dòng suối Huồi Cốc Tên thành các hồ nuôi cá với tổng diện tích năm mươi héc ta. Nay cá đã lớn, có con dăm bảy cân mà chỉ để ngắm chứ không cần bán. Để giữ rừng tốt, anh mở hàng chục km đường vừa tạo giao thông nội vùng vừa làm đường băng cản lửa khi cần thiết. Trên các đỉnh đồi, anh xây hàng chục bể chứa nước mỗi bể có thể tích bốn mươi mét khối để phục vụ tưới.

Đối với cây Trầm, anh liên kết với đối tác Malaixia xây dựng hệ thống bốn mươi lò chưng cất tinh dầu nhằm bao tiêu nguyên liệu cho người trồng Gió bầu trên toàn lãnh thổ Lào. Anh liên kết với Đài Loan chế biến búp lộc lá thành trà Trầm xuất khẩu. Theo anh, cây Gió Bầu là loại cây đặc biệt quý hiếm cho giá trị kinh tế rất cao nhưng phải biết kỹ thuật chăm sóc và đầu tư. Nó được xây dựng trên cơ sở chỗ dựa đơn giản đó là rừng hoang và nông dân. Cuối năm này anh sẽ cho phá hệ thống lò cũ để xây một trăm lò chưng cất mới với công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. Được biết, giá một lít tinh dầu Trầm hương loại tốt nhất được bán tại thị trường Lào là mười tám ngàn đô la Mỹ. Loại kém phẩm nhất cũng đã là bảy đến tám ngàn đô. Còn trên thế giới lại được chào bán với giá từ năm mươi đến bảy mươi ngàn đô la một lít...

- Bí quyết nào anh lại thành đạt nơi xứ người? - Tôi hỏi.

- Có hai cú hích. Đó là không nơi nương tựa và bị nhiều người coi khinh vì mình quá nghèo, thứ nữa tôi muốn cho bố tôi biết, tôi tìm ông không phải để thừa hưởng cái gia tài kếch xù của ông-  Còn một điều quan trọng nữa là vợ tôi luôn ủng hộ và tôn vinh chồng, tôi không muốn vợ con tôi phải khổ. -Thoong Phị La Vông trả lời không do dự.

Tôi nhìn sang chị Nguyễn Minh Hiền nhưng chị không chịu trả lời phỏng vấn của nhà báo, chị quả quyết, anh Thoong nói là được rồi. Tất cả mọi điều chị đều gửi gắm ở người chồng, nhưng chị là chỗ dựa vững chắc cho anh thành đạt, tôi biết.

Nụ cười của sự thành đạt

Sau này khi biết anh đã trở thành tỷ phú đất Lào, bố anh mới triệu anh về nhận con và giao cho một ít vốn, vì lúc ấy ông cũng bắt đầu bị phá sản và tụt dốc. Nhưng dẫu sao ông cũng đã cho Thoong Phị La Vông một giáo trình cuộc đời để biết vươn lên. Cũng chính vì tin tưởng năng lực trồng và giữ rừng của anh mà chính phủ Lào đã trao cho anh trông giữ thêm mười nghìn héc ta rừng đầu nguồn thuộc vùng quan trọng về quốc phòng an ninh. Đại trang trại của anh đã nổi tiếng bởi cái tên Công ty phát triển nông lâm nghiệp tỉnh Viêng Chăn và đã đón hàng trăm lượt khách trong và nài nước Lào đến thăm quan học tập.

Không còn cuộc sống lam lũ thiếu đói như trước đây, hàng ngày Hoàng Diểu rong ruổi trên chiếc ô tô đời mới từ Viêng Chăn lên thăm rừng. Trong nhà hiện có chín xe ô tô, theo anh bây giờ nó chỉ là phương tiện thôi mà... Còn bản Nỏng Bua thuộc huyện Phôn Hông tỉnh Viêng Chăn thì từ chỗ năm một nghìn chín trăm chin chín, cả bản người Lào Thơng sáu mươi hộ nhà tranh vách nát nay đã ngói hoá xi măng trăm phần trăm. Bà con lại có điều kiện mua sắm xe cộ phương tiện, gồm mười bốn xe công nông, sáu mươi xe máy, nhà nào cũng có ti vi, con em đều được học hành, người ốm đau đều được chữa bệnh...nhờ anh đem lại. Chính vì thế người bản Nỏng Bua coi anh là vị thánh cứu tinh của họ cũng đúng.

Tại nhà anh, tôi còn nhìn thấy đầy ắp những huân, huy chương, bằng khen, giấy khen do các cấp Đảng chính quyền Lào từ trung ương, các bộ ngành và các tổ chức đoàn thể trao tặng. Rồi trên ngực áo anh, bộ trang phục cựu chiến binh Lào cũng đầy những huân, huy chương, ấy. Nổi bật đỉnh cao là tấm Huân chương lao động hạng nhất mà Đảng và nhà nước Lào vừa trao tặng anh trong năm hai ngàn không trăm lẻ tám này...Anh đã có nhiều đóng góp trong hoạt động từ thiện và vinh dự được Đảng và nhà nước Lào, các tổ chức xã hội giao trọng trách tham gia Hội khuyến học, Hội cựu chiến binh trung ương, uỷ ban thể thao Quốc gia và Hội việt kiều tỉnh Viêng Chăn...lĩnh vực nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tạo uy tín cao.

Anh cho biết, những việc làm và những thành tích ấy có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và giữ mãi mối tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt thủy chung hai dân tộc Việt Lào mà những người như anh là cầu nối và là hạt nhân trong lòng đất nước Triệu voi. Anh còn đọc tôi nghe câu thơ bất hủ của Bác, một chân lý về mối tình Việt Lào mà hầu như lúc nào gặp gỡ, sinh hoạt với các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của Bạn anh đều đọc:

“Thương nhau mấy núi cũng trèo

mấy sông cũng lội, vạn đèo cũng qua

Việt Lào hai nước chúng ta

Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long.”

Khi tôi đang lấy tư liệu để viết về anh thì ông Lê Văn Kiểm, tổng giám đốc công ty sân gôn Long Thành Đồng Nai điện thoại từ Việt Nam thông báo, ông đã nhất trí triển khai dự án sân gôn tại thủ đô Viêng Chăn vào cuối năm nay. Hoàng Diểu reo lên, thế là anh lại vừa làm được một điều có ích, kêu gọi được nhà đầu tư vào Lào. Được biết dự án sân gôn rộng năm trăm héc ta do anh và ông Lê Văn Kiểm triển khai trị giá hơn một tỷ đô la, vào loại cao nhất trong các dự án nước nài đầu tư vào Lào.

Tôi ngạc nhiên, cớ sao hai người lại biết nhau?

- Nhờ làm từ thiện mà gặp nhau, ông Kiểm là cựu chiến binh từng chiến đấu ở chiến trường Lào, là Anh hùng lao động của Việt Nam, ông ấy giúp Lào hàng trăm tỷ đồng, tôi cũng vậy. Ông ấy còn đầu tư tại Lào nhiều công trình dự án có giá trị, mới đây ông cũng được Chính phủ trao tặng Huân chương lao động hạng nhất cùng đợt với tôi.

 Thoong Phị La Vông nói về đồng đội của mình rất hào hứng, tôi chưa gặp ông Kiểm lần nào, nhưng cũng đã mê lắm, huống chi Thoong Phị La Vông. Và tôi biết, những người như các anh đang cống hiến một cách thầm lặng, rất hữu ích và thiết thực vừa tạo chất keo kết dính cho mối tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Lào thủy chung đã bao đời nay. Những người như các anh và chúng ta phải tiếp tục phát huy và dìn giữ. Tôi và anh tâm sự mãi không hết chuyện mà bút tôi không thể ghi hết được.

Ngôi nhà của anh giữa lòng thủ đô Viêng Chăn, mỗi tối thứ sáu lại vang lên tiếng hát ca ngợi quê hương Việt Nam, ca ngợi Đảng và Bác Hồ của Câu lạc bộ đồng hương Xiêng Khoảng. Anh nói, mình không sinh ra lớn lên ở Xiêng Khoảng, nhưng vì đất Xiêng Khoảng là đất cách mạng, những người này rất tâm huyết với đường lối của Đảng Cộng sản. Khi nhường gian nhà và cái sân rộng nhất cho câu lạc bộ  đồng hương Xiêng Khoảng sinh hoạt là anh luôn có hình ảnh tuổi thơ của mình, có hình ảnh đất nước một thời gian lao vất vả, và cũng theo anh nói, để lớp người Lào gốc Việt thế hệ mới này luôn nhớ rằng trong mình có dòng máu Lạc Hồng, có nghị lực Việt cho dù mình mang quốc tịch nào. Cho dù kiếm sống có khó khăn đến mấy, khi nghĩ về nghị lực và tấm gương Hồ Chí Minh thì khi vượt qua những khó khăn đó mới thấy ý nghĩa và lớn lao vô cùng. Vì thế, anh em làm ăn được ở bên này quyết tâm tìm thời cơ để về báo công với Bác tại quê nhà của Bác, điều đó mới thiêng liêng và chân thành.

Hôm ở Kim Liên quê Bác, trước anh linh của Người, anh đã thốt lên trong nghẹn ngào nước mắt:

- Con đã làm theo lời Bác dạy Bác ơi. Nghề của con là nghề trồng rừng, mà Bác đã từng dạy “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; Vì lợi ích trăm thì phải trồng người” nay tâm nguyện ấy con đã và đang làm trọn. Chính phủ Lào đã nhất trí dự án trồng hàng ngàn héc ta rừng dọc biên giới Lào Việt, các nhà đầu tư sẽ cùng chung tay góp sức để vừa giữ dìn môi trường vừa bảo vệ biên giới hữu nghị hai nước chúng ta.

Và những lần lắng nghe lời kể của hướng dẫn viên khu di tích Lim Liên,  tôi lại thấy nước mắt anh chảy trào. Dòng nước mắt của người con xa xứ trở về dưới mái nhà Bác.

Lang Quốc Khánh
Đài PT-TH Nghệ An

Cùng chuyên mục

Đừng bỏ lỡ
Sôi nổi các hoạt động chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11

Sôi nổi các hoạt động chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11

Tin nổi bật4 ngày trước

(Sóng trẻ) - Nhiều trường học trên cả nước đã tổ chức các hoạt động thiết thực nhằm hướng tới Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, tạo không khí thi đua phấn khởi cho học sinh, sinh viên và đội ngũ nhà giáo.

Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam

Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam

Tin nổi bật4 ngày trước

(Sóng trẻ) - 94 năm qua, Mặt trận Thống nhất Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

[Infographic] Lịch sử ngày Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam

[Infographic] Lịch sử ngày Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam

Tin nổi bật4 ngày trước

(Sóng trẻ) - Ra đời vào năm 1950, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (Vietnam Union of Friendship Organizations - VUFO) đã góp phần to lớn trong việc xây dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế.

XEM THÊM TIN

SỰ KIỆN NỔI BẬT

TIN ẢNH

XEM NHIỀU NHẤT

TIN NỔI BẬT

DIỄN ĐÀN