Muôn vẻ rác làng nghề - Bài 2: Dân càng giàu, làng càng ô nhiễm
(Sóng trẻ) - Kinh doanh rác thải đem lại lợi nhuận không nhỏ cho những hộ dân ở các làng tái chế nhưng lại khiến môi trường chìm trong ô nhiễm.
Núi rác, núi vàng
Ở nhiều địa phương, tấc đất là tấc vàng nhưng ở làng Khoai (thị trấn Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên), tấc đất là tấn rác. Bởi rác với họ không phải là thứ bỏ đi mà rác là nguồn sống. Rác có mặt ở khắp mọi nơi. Rác không chỉ ở xưởng mà ở trước cửa nhà, ở ngoài ruộng, ở chợ... Ngay cả ở nghĩa trang - mảnh đất vốn dĩ thuộc về người những người đã khuất, nay cũng đang được tận dụng để chứa những thứ phế thải không thể tái chế được nữa. Rác trong làng được chuyển ra bãi tập kết để tiếp tục ô nhiễm ở một địa điểm khác.
Tại “đại công trường rác” này, không khí luôn nặng nề, âm u, xám xịt. Đây là hệ quả của quá trình xả khói trực tiếp từ các xưởng ra môi trường. Những cột khói đen kịt đua nhau bủa vây làng Khoai, không khí luôn âm u, xám xịt. Cô Đặng Thị Lan (59 tuổi, ở Sơn La) cho biết: “Ban đầu thấy khét lẹt cũng không chịu được đâu, nhưng mãi thì cũng quen…Tối đến họ đốt rác trên bãi, ngày thì phun nước để tắt lửa cho xe chở rác còn hoạt động”.
Bên trong những xưởng tái chế nhựa, do hệ thống máy móc thô sơ nên rất ít cơ sở có hệ thống xử lý chất thải trước khi đưa ra môi trường. Kết quả của quá trình này là những hạt nhựa thì ở lại công xưởng nhưng nước thải thì xả trực tiếp ra các kênh, mương sau đó hòa vào dòng sông quanh làng. Nước bẩn, ô nhiễm từ rác rỉ ra, ngấm vào đất, không thể trồng lúa hay chăn nuôi gì trên mảnh đất này.
Đất, nước thậm chí là không khí tại “thủ phủ phế liệu” (Xà Cầu, Ứng Hòa, Hà Nội) cũng chung số phận với “đại công trường rác làng Khoai”. Theo lời người dân trong làng, trước đây khi chưa làm nhựa, họ vẫn duy trì các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi nhưng từ khi làm nhựa thì đất và nước đều nhiễm chất bẩn.
Những hộ gia đình nghiền nhựa phải rửa sạch nhựa trước khi nghiền. Và liệu nước thải từ hoạt động rửa nhựa này sẽ được xử lý như thế nào, đi đâu, về đâu? Câu trả lời chúng tôi nhận được từ một người hành nghề là: “Xả thẳng ra sông, ra kênh thôi em…”.
Cô Nguyễn Thị Ước (49 tuổi, nhân công phân loại, nghiền nhựa) cho biết: “Xử lý nước thải nữa thì lấy đâu ra tiền, tốn kém nên xả thẳng ra sông, ra kênh thôi… Mà cả làng cả tổng người ta xả ra chứ có phải 1, 2 nhà đâu mà quản lý được…”. Con kênh Bắc Quảng Hoa biến thành con kênh chứa nước thải trực tiếp từ các hộ gia đình nghiền nhựa. Và không chỉ có con kênh này, những con kênh chạy dọc ruộng lúa luôn trong tình trạng đen ngòm.
Một số khu vực đồng ruộng được tận dụng để chứa “rác từ phế liệu”. Nhãn mác bị bóc ra từ những chai nhựa được tập kết ở một khu vực ruộng lúa cũ. Và đây cũng là nơi tập kết “rác từ rác”, bà con không thể canh tác.
Nhựa, nilon từ khắp nới được đưa trực tiếp về làng để chuẩn bị quay đầu một vòng đời mới nhưng cũng bắt đầu một chu trình ô nhiễm ở những ngôi làng tái chế này.
Ẩn họa khôn lường
Ở những bãi phân loại tại làng Khoai, lẫn trong những kiện nilon là những bịch rác thải y tế. Biết là nguy hiểm nhưng họ chỉ trang bị những dụng cụ bảo hộ đơn giản như găng tay vải, khẩu trang vải.
Điều đáng sợ hơn là nếu không được phân loại cẩn thận, chính những rác thải y tế mang mầm bệnh lại trở thành những ống út, túi nilon, hộp đựng xôi, đựng cơm… sau quá trình tái chế ở đây. Chúng làm tăng nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực phẩm, thậm chí gây bệnh cho người sử dụng…
Không chỉ ngoài bãi mà trong các xưởng tái chế cũng hiện diện những nguy cơ gây hại trực tiếp đến sức khoẻ của nhân công. Bản chất bên trong các xưởng là quá trình đốt nilon, nhằm nóng chảy để dễ dàng tạo hạt. Các chất bốc lên từ hoạt động đốt nilon, nhựa thừa cũng là một trong số những tác nhân gây bệnh nguy hiểm.
Tại Xà Cầu, tử thần cũng luôn rình rập những nhân công ở đây. Nhiều lần, bà N.T.M (54 tuổi) bắt gặp những kim tiêm y tế, còn nguyên máu, thậm chí có những chiếc đã bị mất nắp tiềm ẩn những nguy cơ mắc phải những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bà M cho biết: “Làm nghề thì tránh làm sao được, kim đâm vào thì bóp bỏ cái máu đấy đi, lúc nào ra máu tươi là được. Bóp đi cho nó đỡ nhức rồi làm tiếp, chứ không làm thì lấy gì mà ăn…”.
Với nhiều lần “vô tình” bị kim đâm vào tay nhưng không đến các cơ quan chuyên môn để xét nghiệm, bà M đã vô tình làm tăng nguy cơ mắc các bệnh xã hội nguy hiểm như HIV, viêm gan BC, viêm gan C…Nhưng đến nay bà M khi làm việc vẫn chỉ trang bị những chiếc găng tay bằng vải hết sức thô sơ vì suy nghĩ: “Hoạ hoằn lắm thì mới nắm vào thôi…”.
Khi được hỏi có sợ nhiễm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm không? Bà M vui vẻ đáp: “Sống chết có số, trời thương thì cho sống chứ người tôi đầy bệnh, mấy chục năm nay rồi vẫn sống đấy thây, thêm bệnh thì thêm tiền thôi…”.
Theo TS.BS. Nguyễn Trung Nguyên (Giám đốc trung tâm chống độc, bệnh viện Bạch Mai) cho biết: “Bản thân các nhựa, nilon khi cháy nóng bốc hơi lên, phát sinh ra chất mới, tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ, từ nhiễm độc, mắc bệnh truyền nhiễm…”. Bác sĩ chia sẻ thêm trong quá trình làm việc đã gặp nhiều bệnh nhân nhiễm độc từ hoạt động tái chế nhựa, tái sử dụng các chất từ nhựa như nhiễm thiếc, nhiễm Asen, nhiễm chì…từ đó tiềm ẩn nguy cơ mắc những căn bệnh nguy hiểm.
Theo TS Đào Thị Hồng Vân - Phó viện trưởng Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Mở Hà Nội, nhựa (plastic) và rác thải y tế có chứa nhựa, khi đốt cháy ở nhiệt độ cao sẽ sinh ra chất cực độc là Dioxin (PCDD) và Furan (PCDF); ngoài ra còn có CO2, HCl, kim loại nặng, … Nếu sử dụng lò đốt 2 cấp, đạt tiêu chuẩn thì sẽ hạn chế chất thải nguy hại này.
Sản phẩm nhựa phổ biến là PE (polyetylen), PET (polyetylen terephtalat), PS (polystyren), PP (polypropylen), PVC (polyvilyn clorua) và nilon, có bản chất là polymer hữu cơ tổng hợp. Quá trình sản xuất/tái chế nhựa tạo ra khí CO2, HCl,… sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới người sản xuất/tái chế và phá hủy môi trường.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, giới trị cho phép của tổng số dioxin/furan là 1-4 pg TEQ/kg/ngày (khuyến cáo là 1). Khi tiếp xúc ở mức độ nhẹ thì gây các bệnh về da, hô hấp, thần kinh, nội tiết. Ở mức độ nặng hơn thì gây các bệnh về gan, thận, máu, ung thư, phụ nữ có thai dễ sinh con thiếu tháng hoặc dị dạng, mức độ cao nhất là dẫn đến tử vong.
Nhữung ngôi làng này giàu lên nhờ rác, nhưng người dân chết cũng vì rác. Nghịch lý này ngày càng hiện rõ ở nhiều ngôi làng tái chế.