Người Thái sống ở Hà Nội: Giữ tinh thần sống trên núi
(Sóng Trẻ) - Bạn có phải đi học bằng ngựa không? Đây là câu hỏi tôi thường được người dân Hà Nội hỏi nhiều nhất khi tôi nói với họ rằng tôi là người dân tộc Thái Đăm đến từ một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Sơn La ở phía tây bắc Việt Nam, cách thủ đô Việt Nam hơn 300 km.
Bảy năm trước, tôi chuyển đến Hà Nội đi học và sau đó tiếp tục làm việc ở thành phố. Hà Nội là một trong những thành phố được xây dựng nhiều nhất trên thế giới, dày đặc với các tòa nhà và một số lượng lớn người, bao gồm nhiều người từ các cộng đồng dân tộc, đến từ nhiều thị trấn và tỉnh nhỏ hơn ở Việt Nam để nghiên cứu, tìm việc hoặc làm việc. Tuy nhiên với quy mô của thành phố và mật độ dân số rất đông song tôi khó có thể bắt gặp trang phục và ngôn ngữ các dân tộc khác.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó lớn nhất là người Kinh chiếm hơn 85% và dân tộc Thái chiếm khoảng 1,8% dân số. Vì nhiều cộng đồng dân tộc sống chủ yếu ở vùng cao hoặc vùng núi xa xôi, nên khi đến Hà Nội, họ được xem là người miền núi. Có một nhận thức trong dân gian thành phố Hà Nội rằng người dân tộc có một cuộc sống khó khăn trên núi, sống trong điều kiện lạc hậu.
Tác giả đang mặc trang phục đỏ của Dao khi cô làm hướng dẫn viên du lịch địa phương. (Ảnh Minh Chiến)
Một số ít người ở các thành phố lớn ở Việt Nam có thể nhớ tên khác nhau của các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam. Mặc dù có sự đa dạng về dân tộc, chúng tôi thường chỉ được gọi là người dân tộc thiểu số Hồi giáo, trong tiếng Việt dân tộc.
Thuật ngữ này cũng thường được rút ngắn thành các bộ lạc dân tộc thiểu số hoặc tộc thiểu số. Nhưng nhiều người từ các cộng đồng dân tộc không thích thuật ngữ này vì nó phủ nhận bản sắc và sự đa dạng sắc tộc của chúng tôi và văn hóa và lịch sử độc đáo của mỗi cộng đồng.
Chỉ đến khi bắt đầu sống ở Hà Nội, tôi mới dần nhận ra tất cả những điều này. Rằng hầu hết mọi người ở Việt Nam có ít kiến thức hoặc hiểu biết về bản sắc và văn hóa dân tộc. Từ đó tôi bắt đầu nghĩ mình cần phải làm gì đó để người dân thành phố biết và hiểu cộng đồng dân tộc tốt hơn.
Tự hào không sợ bản sắc dân tộc của tôi
Khi tôi còn là sinh viên đại học năm thứ ba, lần đầu tiên tôi học về dân tộc của chính mình. Chúng tôi đã có một số bài học về văn học dân gian của các dân tộc ở Việt Nam. Giảng viên, người mà tôi nhớ rất rõ trong buổi học đầu tiên của chúng tôi, đứng trước lớp và hỏi: Có ai thuộc nhóm thiểu số trong lớp này không? Bạn có thể vui lòng kể cho chúng tôi một trong những câu chuyện dân gian phổ biến về cộng đồng của bạn không?
Trong số 100 học sinh trong lớp này, tôi biết ít nhất bảy hoặc tám người không phải là người Kinh và do đó có nghĩa là họ thuộc về các nhóm dân tộc khác. Nhưng tôi không thấy một bàn tay nào được giơ lên.
Suy nghĩ của tôi ùa về khi tôi còn nhớ khi còn trẻ, tôi cũng đã gặp những người sợ nói với người khác về bản sắc dân tộc của họ. Chúng tôi bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hiểu biết về văn hóa dân tộc của chúng tôi, chúng tôi sợ những gì họ sẽ nghĩ về chúng tôi nếu chúng tôi tiết lộ bản sắc dân tộc của chúng tôi, và điều này làm giảm sự tự tin của chúng tôi.
Tôi biết rằng một số trẻ em trong làng của tôi không còn nói tiếng mẹ đẻ Thái Đăm vì cha mẹ chúng không dạy chúng dù chỉ một từ. Những đứa trẻ này lớn lên chỉ biết nói tiếng Việt. Nhưng tôi đã lớn lên với những huyền thoại và bài hát về lịch sử, cuộc sống và văn hóa Thái Đăm của chúng tôi. Tất cả những bài hát và câu chuyện này đến từ mẹ và bà tôi, những người tự hào về bản sắc dân tộc Thái Đăm của chúng tôi. Ngay lúc đó, tôi quyết định giơ tay.
Ngay cả khi tôi giơ tay lên, tôi cảm thấy những tiếng thì thầm gợn quanh lớp học. Tôi đứng dậy và tự giới thiệu. Đây là cơ hội hiếm có của tôi để nói với bạn bè và bạn cùng lớp về tôi là ai. Tôi bắt đầu thuật lại một câu chuyện tình Thái Đăm mà mẹ tôi đã kể cho tôi nhiều lần và tôi biết bằng trái tim. Khi tôi kết thúc câu chuyện của mình, lớp học nổ ra trong những cái bắt tay và tiếng cười, mọi người rất thích câu chuyện đó.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm nhưng cũng tự hào rằng tôi đã thực hiện bước đầu tiên để cho lớp biết công khai về bản sắc dân tộc của tôi. Giảng viên của tôi rất ấn tượng và kể từ ngày đó, đã trở thành một người luôn ủng hộ và truyền cảm hứng cho tôi viết về cuộc sống và văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam.
Cô gái trong trang phục truyền thống Thái Đăm. (Ảnh của Huy Hoàng)
Vì họ đã viết nhiều câu chuyện và bài viết về người Thái Đăm cho các trang tin tức và tạp chí trực tuyến, với một số câu chuyện cũng được đăng trên các tờ báo quốc gia của Việt Nam. Tôi đã nhận ra trong suốt cuộc đời, mình là một nhà văn Thái Đăm dân tộc rằng việc thay đổi nhận thức của mọi người và khiến họ hiểu về các nền văn hóa dân tộc khác phải bắt đầu bằng một sự thay đổi trong cách họ nghĩ về các cộng đồng dân tộc bao gồm các thuật ngữ hoặc mô tả mà họ sử dụng.
Mạng người Thái Đăm ở Hà Nội
Tôi không biết chính xác có bao nhiêu người Thái hiện đang sống như tôi ở Hà Nội. Tôi biết rằng nhiều người dân tộc Thái tiếp tục đến Hà Nội để học, trong khi nhiều người thường xuyên qua lại vì công việc. Bây giờ có một số câu lạc bộ thành viên cho người Thái và chúng tôi cũng sử dụng các nhóm Facebook. Những điều này giúp chúng tôi chia sẻ mọi thứ về văn hóa Thái, giúp nhau tìm hiểu kịch bản Thái, kết bạn và cũng để người khác hiểu về văn hóa của chúng tôi. Càng ngày, nhiều người Thái trẻ càng muốn duy trì ngôn ngữ và văn hóa dân tộc của họ mặc dù họ có thể sống ở thành phố cách đó hàng trăm km.
Họ tìm nhiều cách để thể hiện tình yêu học tập dân tộc và dạy kịch bản Thái cho người khác, nấu thức ăn Thái Đăm hoặc tham gia các sự kiện truyền thống nơi họ hát các bài hát Thái Đăm và quảng bá chúng trên video. Nhưng đây vẫn chỉ là một thiểu số nhỏ; phần lớn những người sống và làm việc tại Hà Nội không biết nhiều về Thái Đăm và cuộc sống của chúng tôi. Với bài viết của mình, tôi có thể đóng một vai trò quan trọng để thu hẹp khoảng cách giữa những người thuộc các nền văn hóa và bản sắc dân tộc khác nhau và giữ cho tinh thần văn hóa núi trong thành phố.
Huy Ngọc (theo Mekongcommons)
Cùng chuyên mục
Bình luận