Dấu ấn “mặt trận báo chí” tại Hội nghị Paris năm 1973
(Sóng trẻ) - Mặt trận báo chí tại Hội nghị Paris năm 1973 đã trở thành một phần của lịch sử ngoại giao, nơi bà Nguyễn Thị Bình cùng những cây bút như Nguyễn Thành Lê và Dương Thị Duyên dùng trí tuệ, bản lĩnh và lòng yêu nước để đưa tiếng nói Việt Nam vang xa khắp thế giới.
Hội nghị Paris 1973 - cuộc đàm phán kéo dài gần 5 năm (từ 13/5/1968 đến 27/1/1973), kết hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị, ngoại giao, giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến trường, cuộc đấu trí các bên trên bàn đàm phán, và không thể không nhắc đến mặt trận báo chí.
Cụ thể, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ tham gia các cuộc đàm phán với thành phần và quyền lợi khác nhau. Hội nghị Paris diễn ra trong điều kiện quốc tế đặc biệt: phong trào phản chiến tại Mỹ và nhiều nước phương Tây mạnh mẽ; quân đội Mỹ sa sút về tinh thần; chiến trường miền Nam và miền Bắc Việt Nam có nhiều bước ngoặt.
Sự kiện nhận được sự săn đón từ nhiều cơ quan báo chí quốc tế, không chỉ với 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng mà còn ghi dấu ấn với số lượng kỷ lục gần 500 cuộc họp báo, gần 1.000 lần trả lời phỏng vấn báo chí.
Theo cuốn sách “Cuộc đàm phán lịch sử” do Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành năm 2009, hàng nghìn nhà báo, phóng viên nhiếp ảnh, điện ảnh, quay phim truyền hình của rất nhiều nước trên thế giới đã “đổ về thủ đô Paris theo dõi, đưa tin, bình luận cuộc đàm phán Việt Nam - Mỹ, mà trong lịch sử chưa có hội nghị quốc tế nào (kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai) có mặt đội ngũ các nhà báo hùng hậu đến thế”.
Người phụ nữ làm nên bản lĩnh ngoại giao Việt Nam
Nhắc tới “nghệ thuật ngoại giao”, một trong những gương mặt xuất sắc nhất là bà Nguyễn Thị Bình - nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris.
Vào thứ Năm hàng tuần, người dân Paris lại chứng kiến "Madam Bình" với phong thái lịch lãm, sang trọng, trong bộ áo dài truyền thống tới Nhà Hội nghị Quốc tế để tổ chức họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao.
Bà Nguyễn Thị Bình kể trong hồi ký, có những cuộc họp báo quốc tế tới 400 nhà báo, hoặc có lần truyền hình trực tiếp, bà phải trả lời phỏng vấn (bằng tiếng Pháp) với hàng chục phóng viên Pháp, Mỹ. Một mình giữa các nhà báo sừng sỏ, dưới ánh đèn sáng chói, bà đã bình tĩnh đối đáp, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí muốn tìm giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh.
Trong từng cuộc họp báo, từng buổi trả lời phỏng vấn, bà vừa kiên quyết về lập trường, vừa khéo léo vận dụng sức mạnh ngôn từ để dẫn dắt dư luận, khiến bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Những phát biểu của bà, được ghi lại và truyền đi khắp thế giới, trở thành công cụ truyền thông đối ngoại sắc bén, góp phần định hình hình ảnh Việt Nam như một dân tộc tự chủ, có lý lẽ và nhân văn trong đấu tranh hòa bình.
Giữa lòng nước Pháp, viết nên tiếng nói Việt Nam
Cùng thời điểm ấy, bên cạnh bà Nguyễn Thị Bình là những “người chiến sĩ thầm lặng” cầm bút - những nhà báo Việt Nam có mặt tại Paris như Nguyễn Thành Lê, Hà Đăng, Dương Thị Duyên. Họ vừa là phóng viên, vừa là nhà nghiên cứu, nhà đối ngoại, mang trong mình nhiệm vụ kép: đưa tiếng nói của Việt Nam ra thế giới và phản ánh chân thực từng bước đi của mặt trận ngoại giao.
Nhà báo Nguyễn Thành Lê, Trưởng đoàn báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, là người trực tiếp tham gia các cuộc họp báo, đối thoại, và phản biện thông tin từ báo chí phương Tây. Với phong thái điềm tĩnh, lý luận sắc bén, ông đã khiến nhiều cây bút quốc tế phải nể phục.
Ông luôn biết cách chuyển hóa những câu hỏi hóc búa của phóng viên quốc tế thành cơ hội để truyền tải tinh thần yêu chuộng hòa bình và bản sắc Việt Nam. Không hiếm lần, ông khéo léo lồng ghép những thành ngữ, ca dao dân gian – những “hạt ngọc ngôn ngữ” của dân tộc - vào các câu trả lời ngoại giao.
Đề cập đến tiến trình đàm phán, ông đã mượn câu ca dao quen thuộc:
“Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt, leo ra leo vào...”
Ẩn trong sự dí dỏm, giản dị là một thông điệp sâu sắc: con đường đấu tranh giành hòa bình có thể quanh co, nhưng ý chí của dân tộc Việt Nam là bất biến. Cách ứng xử mang đậm bản sắc văn hóa và trí tuệ ấy khiến bạn bè quốc tế không chỉ khâm phục lý lẽ Việt Nam mà còn cảm mến tâm hồn Việt - thông minh, kiên cường và nhân hậu.
Nhà báo Hà Đăng (tên thật là Đặng Ninh Đằng), phụ tá của bà Nguyễn Thị Bình, là người biên tập và soạn thảo nhiều bài phát biểu quan trọng của phái đoàn Cách mạng miền Nam Việt Nam. Trước khi trở thành một thành viên của phái đoàn ngoại giao tại Paris, ông vốn là cây bút kỳ cựu của Báo Nhân Dân, từng đảm nhiệm cương vị Tổng Biên tập Báo Nhân Dân và Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Trong quá trình làm việc tại Hội nghị Paris, mỗi bản dự thảo đều được ông Hà Đăng rà soát cẩn trọng về nội dung, ngôn ngữ và thông điệp chính trị. Các bài phát biểu được ông biên tập vừa đảm bảo tính chuẩn xác, chặt chẽ về lý lẽ, vừa thể hiện sức mạnh lập luận, bản lĩnh ngoại giao và tinh thần nhân văn của Việt Nam. Ông từng kể rằng “mọi văn kiện gửi ra công luận quốc tế đều được rà soát kỹ từng từ, từng dấu chấm câu”, đó còn là lời nói đại diện cho một dân tộc bước ra thế giới.
Cùng với họ, nhà báo Dương Thị Duyên là “bóng hồng” của mặt trận thông tin Paris - bà cùng đồng nghiệp đã phản ánh diễn biến đàm phán qua hàng loạt bản tin, tư liệu, giúp hình thành nên một bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu trí ngoại giao kéo dài gần năm năm. Khi ấy, bà giữ chức vụ Trưởng phòng Tin miền Nam, Thông tấn xã Việt Nam, là con gái giáo sư Dương Quảng Hàm tham gia Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán ở Hội nghị Paris từ năm 1968 đến 1970.
Nhà báo Dương Thị Duyên (áo trắng) trong một cuộc míttinh của nhân dân Pháp ủng hộ lập trường đàm phán của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hội nghị Paris, 1968. (Nguồn: TTXVN)
Trong những năm tháng công tác tại Paris, bà đảm nhiệm song song hai nhiệm vụ: nhiệm vụ: phóng viên Việt Nam Thông tấn xã thường xuyên gửi tin, bài kịp thời về Tổng xã ở Hà Nội và nhiệm vụ của “Đoàn 37”.
Nhờ trình độ tiếng Pháp tốt, tác phong làm việc chủ động, chuyên nghiệp, bà được phân công tham gia vận động quần chúng, tiếp các đoàn khách quốc tế, nhất là phụ nữ từ các địa phương của nước Pháp và các nước khác đến tìm hiểu tình hình tại các cuộc hội họp, mít tinh để giúp nhân dân Pháp hiểu rõ tình hình Việt Nam, ủng hộ lập trường đúng đắn của Việt Nam tại Hội nghị Paris.
Vai trò của bà không chỉ là phóng viên ghi tin mà còn là người làm công tác vận động truyền thông và ngoại giao mềm, góp phần giúp Đoàn Việt Nam chủ động trong gặp gỡ báo chí, tổ chức tiếp xúc và tương tác với dư luận nước ngoài.
Báo Vietnam+ mô tả bà là “nữ phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Hội nghị Paris” với tư cách chính thức.
Mặt trận không tiếng súng - nơi ngôn từ trở thành vũ khí
Ở Hội nghị Paris, báo chí không đơn thuần là công cụ truyền tin, mà là mặt trận tư tưởng, mỗi bài viết, mỗi phát biểu có sức mạnh không kém một đòn chiến lược. Từ những cuộc họp quốc tế đến từng dòng tin trên tờ báo, mỗi “chiến sĩ ngôn từ” của Việt Nam đã góp phần tạo nên thắng lợi chung - thắng lợi của ngoại giao, của chính nghĩa và của bản lĩnh dân tộc. Trong cuộc chiến ấy, họ không chỉ cầm bút, mà còn cầm lấy trách nhiệm lịch sử: đưa tiếng nói Việt Nam vang lên giữa lòng Paris hoa lệ và đi vào lịch sử nhân loại.
-1756651692.png)
-1756652900.png)
