Nhọc nhằn nghề nón: Làng nón truyền thống vắng bóng người trẻ (Kỳ 2)
(Sóng Trẻ) - Làng nón Chuông không chỉ là niềm tự hào mà còn là nguồn sống gắn bó qua bao thế hệ người dân nơi đây. Thế nhưng, giữa guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại và những biến chuyển không ngừng của xã hội, làng nghề đang đứng trước nguy cơ mai một khi lớp trẻ dần không còn mặn mà với việc nối nghiệp cha ông.
Trong những năm gần đây, nghề làm nón ở làng dường như đang dần phai nhạt, lặng lẽ trôi vào ký ức của những người thợ già. Tiếng khâu nón, tiếng cười nói rộn ràng từng vang khắp nẻo xóm giờ chỉ còn vang vọng trong vài nếp nhà cũ. Nguyên nhân sâu xa, theo nhiều người, chính là sự thiếu vắng lớp trẻ sẵn sàng kế thừa và gắn bó với nghề cha ông để lại. Chị Khánh Linh cán bộ văn hoá - xã hội xã Phương Trung chia sẻ rằng, những người thợ giỏi hiện nay đa phần đều đã lớn tuổi, bàn tay chai sạn vẫn miệt mài với khung nón như một cách giữ gìn hơi thở quê hương. Trong khi đó, lớp trẻ lại có xu hướng rời xa công việc thủ công vất vả, tìm đến những nghề nghiệp mang lại thu nhập ổn định hơn, phù hợp với nhịp sống hiện đại. “Theo khảo sát, phần lớn thanh niên trong làng không còn mặn mà với nghề truyền thống, thay vào đó họ lựa chọn làm việc trong các ngành dịch vụ, thương mại, hay thậm chí là những lĩnh vực không hề liên quan đến sản xuất thủ công,” chị Linh chia sẻ. Sự chuyển dịch ấy, dù là tất yếu của thời gian và xã hội, vẫn khiến nhiều người không khỏi tiếc nuối khi nghĩ đến nguy cơ nghề làm nón - niềm tự hào bao đời của làng dần chỉ còn trong ký ức.
Bạn Tạ Thị Loan, 20 tuổi người dân thôn Quang Trung chia sẻ nghề làm nón là công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và thời gian. “Bản thân mình và các bạn trẻ khác cảm thấy công việc này quá vất vả và không còn phù hợp với nhịp sống hiện đại, hơn nữa việc làm nón hiện tại cũng không mang lại giá trị kinh tế quá lớn, lượng tiêu thụ cũng không ổn định khiến cho thu nhập thực tế từ nghề thủ công không còn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cuộc sống nữa”, bạn nói.
Việc thiếu người trẻ nối dõi sẽ dẫn đến nguy cơ mất đi không chỉ nghề làm nón mà còn cả một phần văn hóa quý giá. Khi không có người tiếp bước, các kỹ thuật làm nón truyền thống sẽ bị lãng quên, những phương thức chế tác độc đáo sẽ không còn được lưu giữ và phát huy. Điều này dẫn đến việc ngành nghề này có thể dần bị xóa nhòa, mất đi sức sống và sự kết nối với quá khứ, khiến thế hệ sau không còn nhận thức được giá trị và ý nghĩa của nghề.

Làng nón Chuông không chỉ là niềm tự hào mà còn là nguồn sống của hàng nghìn gia đình trong vùng. Khi thiếu đi lực lượng lao động trẻ, số lượng nón sẽ giảm sút, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Nếu không có những người kế thừa, làng nghề sẽ không thể duy trì được quy mô sản xuất như trước, dẫn đến việc thu nhập của người dân bị giảm sút. Hơn nữa, khi sản phẩm truyền thống không được duy trì và phát triển, cơ hội phát triển ngành du lịch, quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế sẽ bị thu hẹp.
Nói về nỗi lo khi làng nghề không còn đủ sức hấp dẫn để níu chân người trẻ ở lại, nghệ nhân Lê Văn Tuy cho biết: “Là một người cả đời theo đuổi nghề làm nón, nhìn thấy công việc mà mình gắn bó dần không còn được người trẻ theo đuổi nữa khiến chú rất buồn. Khi lớp trẻ không còn mặn mà với nghề truyền thống, chúng ta không chỉ mất đi những sản phẩm thủ công tinh xảo, mà còn đánh mất sự kết nối với quá khứ, với những câu chuyện và kinh nghiệm mà thế hệ đi trước đã để lại.”
Dẫu phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, những người gắn bó với nghề làm nón vẫn kiên trì giữ lấy ngọn lửa truyền thống, như thể đó là sợi dây nối liền họ với cội nguồn quê hương. Trên những hiên nhà nhuốm màu thời gian, tiếng kim khâu, tiếng lá nón sột soạt vẫn vang lên đều đặn, minh chứng cho tình yêu nghề bền bỉ và lòng tự tôn của người thợ. Nhiều nghệ nhân lớn tuổi, dù sức khỏe không còn dồi dào, vẫn miệt mài dành thời gian truyền dạy cho lớp trẻ từng thao tác, từng bí quyết tinh tế đã được tích lũy qua bao năm tháng. Thế nhưng, hành trình “truyền lửa” ấy không hề dễ dàng. Lớp trẻ ít mặn mà, cuộc sống hiện đại cuốn đi bao quan tâm, trong khi điều kiện kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế – tất cả khiến việc giữ nghề trở thành một thử thách lớn. Song, chính trong gian khó ấy, tình yêu nghề, tình yêu làng lại càng trở nên sáng rõ và đáng trân trọng hơn bao giờ hết.
Để giải quyết tình trạng này, nhiều ý kiến cho rằng cần phải có các chính sách hỗ trợ từ phía chính quyền và các tổ chức văn hóa để tạo cơ hội cho nghề làm nón phát triển. Việc đưa nghề nón vào các chương trình du lịch, giới thiệu sản phẩm qua các hội chợ, triển lãm hay các kênh truyền thông có thể giúp nâng cao giá trị của sản phẩm, qua đó tạo động lực cho lớp trẻ quay trở lại với nghề.
Dẫu cho hiện tại Làng nón Chuông đang đối mặt với muôn vàn khó khăn, khi tiếng khung nón ngày một thưa dần và lớp trẻ dần rời xa nghề truyền thống, nhưng niềm hy vọng về một ngày làng nghề hồi sinh vẫn âm ỉ cháy trong lòng những người yêu nghề. Để gìn giữ và phát triển giá trị quý báu này, không chỉ cần đến bàn tay khéo léo và tâm huyết của những người thợ lành nghề mà còn cần sự đồng hành, quan tâm và hỗ trợ đúng mức từ cộng đồng, từ chính quyền địa phương, cùng các tổ chức, hội nhóm liên quan. Chính sự chung tay ấy mới có thể tiếp thêm sức sống cho những chiếc nón truyền thống, để Làng nón Chuông không chỉ tồn tại mà còn tỏa sáng như một biểu tượng văn hóa sống động của quê hương.
-1756651692.png)
-1756652900.png)
