Hương sắc làng Chuông: Cuộc sống trên từng hoạ tiết (Kỳ 2)
(Sóng trẻ) - Nếu trong quá khứ chỉ đơn thuần là vật dụng che nắng, che mưa thì giờ đây trên mỗi chiếc nón còn chứa đựng những họa tiết mang đậm bản sắc dân gian, phản ánh nhịp sống, phong tục và vẻ đẹp của quê hương đất Việt.
Giữ nét dân gian
Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái; nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng. Hiện nay, người trong làng chỉ sản xuất duy nhất loại nón chóp và thêm một số lượng nhỏ nón quai thao.
Để đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân và hướng tới đại chúng, nón làng Chuông được giữ nguyên trạng, không vẽ trang trí thêm, có chăng chỉ dán vào lòng nón những họa tiết hoa bằng giấy đủ màu cho thêm phần sinh động, bắt mắt.
Sau cùng, người làm nón dùng chỉ màu may chéo ở hai điểm đối diện trong lòng nón để có thể gắn quai bằng những dải lụa mềm, nhiều màu sắc, làm tôn lên được nét duyên dáng của người con gái dưới vành nón lá làng Chuông.

Thổi hồn vào nón lá
Những cụ cao niên trong làng kể lại, trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế, làng nón Chuông rơi vào tình cảnh sa sút và đứng trước nguy cơ bị thất truyền. Để vực dậy, các nghệ nhân trong làng đã chọn cách tân, sáng tạo thêm những chất liệu, họa tiết trên cơ sở chiếc nón lá truyền thống.
Không còn đơn thuần là màu trắng ngà của lá nón, chiếc nón Chuông ngày nay đã được khoác lên mình những lớp màu sắc sặc sỡ, đa hình, đa dạng. Dễ nhận thấy và phổ biến nhất trên các sản phẩm là những họa tiết mang đậm hướng dân gian, nhưng được thể hiện bằng chất liệu và cách thức của nghệ thuật đương đại. Hầu hết nón sẽ được vẽ trang trí những bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam, các danh lam thắng cảnh trên cả nước, đôi khi là hoa sen và quốc kỳ với ngôi sao vàng trên nền nón đỏ.
Để đảm bảo tính nghệ thuật cũng như giá trị thẩm mỹ cho sản phẩm, các nghệ nhân đều thuê họa sĩ riêng cho khâu trang trí. Màu sắc vẽ trên nón thường có độ tươi sáng, nổi bật, chủ yếu sử dụng sơn acrylic và ứng dụng kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu vào để cho ra những bức họa sống động, hút mắt người xem.
Từ Hà Nam lặn lội lên Hà Nội, chú Quách Văn An (64 tuổi), họa sĩ trang trí nón tại một cơ sở sản xuất ở làng Chuông chia sẻ: “ Thật ra, công đoạn này không tính là công đoạn chính bởi vì những chiếc nón được vẽ trang trí như thế này chỉ phục vụ nhu cầu của khách du lịch và xuất khẩu, đôi khi cũng có thêm đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, tổ chức, còn nón làng Chuông vẫn nổi tiếng xưa nay bởi màu trắng ngà của lá nón, độ bóng, bền lâu. Những lúc khối lượng công việc nhiều, chú sẽ đến giúp và giao lưu với các đoàn du khách nước ngoài. Qua đó, chú mong được góp một phần sức nhỏ vào việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống.”

Qua mỗi khung cảnh, họa tiết trên từng chiếc nón, những vị khách như được thả mình vào văn hóa, cảnh sắc của Việt Nam. Chiếc nón làng Chuông không chỉ là vật dụng thường ngày mà còn là tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn dân tộc, chứa đựng cả những câu chuyện về đời sống, phong tục và tâm hồn người Việt. Từ đôi tay khéo léo và tinh tế của các nghệ nhân, chiếc nón trở thành biểu tượng của sự giản dị mà thanh tao, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam qua từng nét vẽ. Chiếc nón vừa là vật kỷ niệm, vừa là một nét độc đáo trong hành trang du khách mang theo, góp phần quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc, đưa hình ảnh đất nước đến với bạn bè quốc tế.
Qua sự yêu mến và lan tỏa của những chiếc nón, Việt Nam dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Trở thành điểm đến không chỉ hấp dẫn về cảnh sắc mà còn giàu có về di sản văn hóa, khiến du khách đến rồi lại muốn quay lại, để một lần nữa được đắm mình trong cái hồn của nón lá Việt Nam.