Phùng Huy Thịnh: Nhà báo trên mặt trận pháo binh
(Sóng trẻ) - Giữa những năm tháng chiến tranh khốc liệt, một chàng trai mê văn chương tình nguyện ra trận, mang theo ngòi bút thay cho nòng súng. Nhà báo Phùng Huy Thịnh đã viết giữa tiếng pháo rền, giữa mất mát và hy vọng - để lưu lại lịch sử bằng những câu chuyện người thật, việc thật, đầy xúc động và chân thành.
Lớn lên từ văn chương, trưởng thành cùng lửa chiến
Là một cây bút sắc sảo, từng lăn xả nơi chiến trường suốt nhiều năm, nhưng nhà báo Phùng Huy Thịnh (sinh năm 1953, quê Gia Lâm, Hà Nội) lại khởi đầu từ hình ảnh một chàng sinh viên Văn khoa đầy lãng mạn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Ngay từ thuở thiếu thời, niềm say mê văn chương đã sớm nảy nở trong ông. Khi mới học lớp 7, ông đã được tuyển vào lớp năng khiếu Văn của Sở Giáo dục Hà Nội. Trưởng thành trong môi trường học thuật đậm chất nghệ thuật ấy, ông thi đỗ và theo học Khoa Văn – nơi khơi dậy và bồi đắp cho ông nền tảng tri thức, cảm xúc và phong cách của một cây bút suốt đời gắn bó với chữ nghĩa.
Năm 1971, khi đang là sinh viên năm hai, ông tình nguyện nhập ngũ, khoác lên mình màu xanh áo lính. Trong đội hình trinh sát pháo binh thuộc Sư đoàn 325, ông trực tiếp chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị - nơi từng là chiến trường khốc liệt bậc nhất trong kháng chiến chống Mỹ. Những ngày tháng ấy đã tôi luyện một người lính gan dạ và cũng đánh thức một người làm báo trong ông.
“Năm 1974, phóng viên đi tác nghiệp chỉ thường đi lẻ và được trang bị súng ngắn, chỉ cần gặp thám báo là “toi”. Rất may mắn, tôi chưa từng bị phục kích như vậy.Nói đến đây, nhà báo dừng lại trong giây lát, thoáng nhớ về lần “suýt hy sinh” năm 1975. Trong lần đó, ông cùng một một anh quay phim đi cùng Sư đoàn 324, đi từ sáng đến trưa, khi mới đang leo đến lưng chừng dốc vì mỏm 303 rất cao thì phát hiện đã bị tái chiếm. Bị địch phát hiện và lia súng rầm rầm, ông cuống quá, ném một quả lựu đạn nhưng lại quên không tháo chốt. “Tuy nhiên, địch thấy ném lựu đạn cũng nằm xuống nấp nên chúng tôi mới có thể lăn xuống phía chân dốc. Trận đó tí chết! Vì hồi đó không có phương tiện liên lạc nên khi bị tái chiếm thì không kịp báo cho phóng viên.” Nhà báo Phùng Huy Thịnh bồi hồi kể lại.
Hàng trăm chuyến tác nghiệp, có những chuyến vào sâu trong rừng Lào suốt nhiều ngày; cũng có những chuyến tác nghiệp phải “bám” suốt cả một chiến dịch kéo dài vài ba tháng, song, có lẽ lần suýt chết đó là lần tác nghiệp đáng nhớ nhất đối với nhà báo Phùng Huy Thịnh.
Tuy nhiên, ông vẫn còn nhiều ám ảnh với hình ảnh đồng đội hy sinh ngay “sát nách” mình. “Có bữa, tôi đang cùng 5 đồng đội ngồi ăn cơm, bị địch càn, 3 anh em hy sinh ngay tại chỗ, 1 người bị thương, nhưng trên đường vận chuyển về trại quân y cũng ra đi vì mất máu quá nhiều. Tôi và một đồng đội may mắn sống sót, nhưng cũng không khỏi bàng hoàng, vẫn phải nhanh chóng vùi xác những người đồng đội vừa hy sinh. Tôi cũng luôn tâm niệm, mình may mắn còn sống sót trở về sau cuộc chiến là nhờ anh em đồng đội “che đỡ” cho mình”, ông ngậm ngùi.
Mùa xuân 1975, ông theo Quân đoàn 2 tham gia giải phóng Huế, Đà Nẵng, rồi cùng Lữ đoàn tăng 203 tiến công từ Đà Nẵng đến Phan Rang, trước khi ngồi trên xe của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu - khi ấy là Thượng tá tiến vào Sài Gòn. Trên hành trình ấy, ông vừa cầm súng vừa cầm bút, ghi lại đời sống chiến sĩ và không khí ngày toàn thắng. Ngay sau giải phóng, ông cùng Báo “Chiến sĩ Giải phóng” kịp ra số đặc biệt 30/4 và 1/5, phát hàng vạn bản tới tay bộ đội và nhân dân.
Khi được hỏi có sợ không, ông cười bảo: “Ai chả sợ. Nhưng vượt qua nỗi sợ ấy chính là tình yêu nghề, là lý tưởng sống. Viết báo, nhất là thời chiến, không có chỗ cho sự hời hợt.”

“Chuyên gia chữa cháy” với sức sáng tạo diệu kỳ
Với nhà báo Phùng Huy Thịnh, nghiệp báo dường như là một mối duyên định sẵn, gắn bó không thể tách rời. Năm 1976, rời chiến trường, ông trở lại giảng đường, theo học khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Thế nhưng, ngọn lửa báo chí trong ông vẫn không nguôi, thôi thúc người thầy trẻ rời bục giảng để tìm lại chính mình giữa nhịp sống sôi động của nghề cầm bút.

Từ năm 1991, với vai trò phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam, tên tuổi Phùng Huy Thịnh nhanh chóng tạo dấu ấn trong làng báo. Đó là giai đoạn sung sức và hiệu quả nhất của ông – khi “làm ở một nơi tỏa ra những ánh sáng muôn nơi”. Chỉ riêng năm 1993, ông đã lập nên một kỷ lục hiếm có trong nghề: hơn 1.300 tác phẩm được đăng tải trên 35 tuần báo Trung ương và 6 tờ địa phương của TTXVN, trải rộng từ tin thời sự, phóng sự, bình luận, đến ký sự và bút ký văn nghệ.
Trong những năm tháng sung sức nhất của sự nghiệp, ông được đồng nghiệp trìu mến gọi là “chuyên gia chữa cháy” của làng báo. Dù thời gian gấp gáp đến mấy, bài viết của ông vẫn luôn kịp ra mắt, chỉn chu và chất lượng – trở thành “phao cứu sinh” cho nhiều tờ báo mỗi khi cần. Ở độ tuổi ngoài 40, ông đã là một cây bút dày dạn tri thức, một gương mặt quen thuộc của công chúng. Ông cười hiền kể lại: “Hồi ấy, một ngày chưa bán được 3-5 bài báo là coi như chưa làm gì cả.”
Nhắc đến Phùng Huy Thịnh là nhắc đến một người làm báo đa tài – vừa viết, vừa dịch, diễn, làm MC. Ở ông hội tụ sự uyên bác, tinh tế và một năng lượng lao động đáng nể, khiến nhiều thế hệ phóng viên trẻ phải “ngả mũ” khâm phục.
Ông chia sẻ chân thành: “Chính cái ‘chất’ nghệ thuật cùng vốn hiểu biết sâu về sân khấu, văn hóa đã giúp tôi viết nên những tác phẩm báo chí mang đậm hơi thở văn hóa, với góc nhìn riêng và chiều sâu khác biệt. Kiến thức nền và sự am hiểu về lĩnh vực mình viết chính là yếu tố cốt lõi để tạo nên một tác phẩm hay, có giá trị.”

Đó cũng là điều ông luôn muốn nhắn gửi đến những người làm báo trẻ hôm nay. Theo ông, “điều quan trọng nhất của một nhà báo là phải có nền tảng văn hóa rộng và tri thức uyên thâm. Thiếu tri thức, người viết sẽ khó lòng thuyết phục được độc giả.” Cùng với đó, nhà báo cần thực tế, nhanh nhạy và đặc biệt phải giỏi tiếng Việt – công cụ nghề nghiệp của chính mình. Không có con đường nào rèn bút tốt hơn là viết không ngừng. Mỗi người cầm bút phải biết tự làm mới mình, học cách diễn đạt đa dạng, vừa là năng khiếu, vừa là quá trình khổ luyện không ngừng.”
Người lính năm nào giờ đã trở thành biểu tượng của một thế hệ nhà báo đi qua gian khổ mà vẫn giữ được ngọn lửa nhân văn trong nghề. Và có lẽ, chính từ những con người như ông, báo chí mới có thể đi qua mọi thời cuộc, giữ lại cho đời những giá trị bền vững nhất – sự thật, lòng tin và tình người.