Giấy dó Yên Thái - Tinh hoa nghệ thuật thăng trầm vượt thời gian
(Sóng trẻ) - Mộc mạc, bền bỉ và mang sắc thái văn hóa đặc trưng của người Việt, giấy dó từ lâu được xem như một di sản thủ công của Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm, từng tưởng chừng như bị lãng quên, nhưng giấy dó vẫn đang được gìn giữ và phát triển.
Di sản quý giá giữa lòng Thăng Long kinh kỳ
Từ thời Lý, nghề làm giấy đã xuất hiện và phát triển mạnh tại kinh thành Thăng Long. Trong ba làng làm giấy nổi tiếng xưa, làng nghề Yên Thái (hay còn gọi là Kẻ Bưởi), nằm ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội (nay thuộc Tây Hồ, Hà Nội) là nơi ghi dấu ấn sâu đậm nhất.
Tiếng nhịp chày giã vỏ dó từ lâu đã đi vào tiềm thức của nhiều thế hệ người dân sinh sống tại làng, hay nói đúng hơn là sinh sống ở quanh mạn hồ Tây. Dần dần, âm thanh ấy đã đi vào ca dao, dân ca, làm nên vẻ đẹp đặc trưng của chốn kinh kỳ thanh bình yên ả:
“Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”.
Trong thời gian đất nước bị kìm kẹp trong vòng nô lệ thời Pháp thuộc, nghệ thuật làm giấy dó cũng tạo được ấn tượng và sự thích thú từ người Pháp. Do vậy có rất nhiều cuốn sách ở thời điểm đó được ra đời và có đề cập đến nghề giấy dó.
Tiêu biểu có thể kể đến là cuốn Kỹ thuật của người An Nam (tiếng Pháp: Technique du peuple Annamite; tiếng Anh: Mechanics and Crafts of the Annamites) của Henri Oger - nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam người Pháp. Ông vốn say mê văn hóa Việt, nên đã tỉ mỉ ghi chép và vẽ lại nhiều kỹ thuật truyền thống, trong đó có nghề làm giấy dó cùng các nghề thủ công khác của người An Nam thời bấy giờ.
Để hiểu trọn giá trị của di sản này, cần trở lại với những công đoạn làm nên tờ giấy dó - từ vỏ cây thô mộc đến những tờ giấy trắng ngà đặc trưng, tất cả đều chứa đựng sự khéo léo và tinh hoa của người Yên Thái.
Tỉ mẩn trong từng công đoạn
Nguyên liệu chính để làm giấy Dó là vỏ của cây dó - loại cây cao mọc ở khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ. Vỏ dó được thu hoạch, ngâm và nấu mềm trước khi đưa vào các bước xử lý thủ công tiếp theo.
Công đoạn đầu tiên là phân loại vỏ dó, bởi vỏ dó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấy. Giấy dó đẹp và hoàn chỉnh có màu hơi ngả vàng, chất liệu giấy dai. Tuy nhiên, nếu vỏ dó có các đốm đen, hay bị sâu,... thì khi làm thành giấy sẽ không được đẹp và có màu nâu hoặc đen. Công đoạn này thường sẽ do các bà, các mẹ đảm nhiệm.
Tiếp theo là giã bìa dó, để thực hiện công đoạn này, người thợ sẽ phải sử dụng cối cối đá và chày giã. Công đoạn giã dó rất nặng nhọc, đòi hỏi nhiều thể lực, do đó, những người đàn ông trong gia đình thường sẽ là người thực hiện.
Sau khi giã nhuyễn vỏ dó, người thợ sẽ để phần bột nghỉ rồi đi tìm cây mò - một nguyên liệu đặc biệt trong nghề làm giấy. Thực chất, “mò” không phải tên của một loài cây cụ thể, mà là cách gọi chung cho những loại thực vật có thể tạo ra chất kết dính với vỏ dó. Chính nhờ loại “keo” đặc biệt này mà giấy dó mới có độ dai và bền đặc trưng. Khi cây mò được trộn vào phần bột dó đã giã, các sợi sẽ từ từ kết lại, đan xen với nhau, tạo thành nền giấy chắc và mịn.
Bột sau khi trộn mò được đưa vào thúng, đặt xuống nước để đãi. Công đoạn này nhằm làm tơi hỗn hợp, giúp sợi dó tách đều, tránh vón thành cục khi seo. Nếu thao tác đãi không kỹ, giấy thành phẩm sẽ lộ vết lỗ chỗ hoặc không phẳng đẹp.
Kế đó là seo giấy - công đoạn quan trọng nhất. Dụng cụ chính là liềm seo, thường gồm hai mảnh tre ghép lại. Người thợ nhúng liềm xuống bể bột, lắc nhẹ theo nhịp tay để lớp bột trải đều, rồi nhấc lên và dùng một thanh gỗ mỏng gạt tờ giấy ra khỏi khung. Để các lớp giấy không dính vào nhau, họ khéo léo đặt thêm một thanh gỗ nhỏ ở mép mỗi tờ.
Seo xong, giấy được ép cho ráo rồi chuyển sang phơi. Ở Yên Thái, thợ dùng hai cách phơi chính. Một là căng giấy lên bề mặt phẳng trong nhà hoặc ngoài trời khi nắng đẹp, giúp giấy khô đều, ít rủi ro. Hai là phơi trên sào gỗ, giống như phơi quần áo. Cách này nhanh hơn nhưng dễ làm rách giấy nếu gặp gió mạnh vì mùa hè mưa nhiều, thời điểm thuận lợi nhất để làm giấy là mùa đông, khi nắng hanh và độ ẩm thấp.
Tùy điều kiện thời tiết và số lượng từng mẻ, giấy sẽ khô sau khoảng 2-4 ngày. Khi giấy đạt độ khô vừa phải, thợ nhẹ nhàng lột từng tờ, xếp, đếm và giao theo đơn đặt hàng. Nhờ vị trí nằm gần Hoàng thành Thăng Long, giấy dó Yên Thái không chỉ dừng lại ở những gánh hàng rong quanh vùng, mà còn theo chân thợ làng vào kinh thành, trở thành vật phẩm phục vụ triều đình và các bậc quan lại.
Gìn giữ giấy dó: Sáng tạo của những bàn tay trẻ
Trải qua nhiều thế kỷ, giấy dó từng là chất liệu gắn với đời sống văn hóa - hành chính của người Việt. Thế nhưng bước sang thời kỳ Đổi mới (1986), khi đất nước mở cửa, kinh tế thị trường bùng nổ và hàng loạt nghề mới xuất hiện, nghề làm giấy dó - vốn nặng nhọc, đòi hỏi nhiều công đoạn - dần bị lãng quên. Không ít nghệ nhân vẫn giữ tình yêu với nghề, nhưng cuộc sống mưu sinh khiến họ buộc phải rẽ sang hướng khác.
Trong bối cảnh ấy, hành trình hồi sinh giấy dó bất ngờ được tiếp sức từ những người trẻ. Tiêu biểu nhất là Zó Project, do chị Trần Hồng Nhung sáng lập năm 2013. Chị Nhung biết đến giấy dó khi học thư pháp - mỗi lần đặt bút lên bề mặt giấy thô mộc, chị cảm nhận được một sự tĩnh tại, gần như thiền định. Những câu chuyện về người thợ Yên Thái, về cả nghề gần như thất truyền, khiến chị quyết tâm bắt đầu dự án với mong muốn “giữ lại một lát cắt văn hóa Việt”.
Giai đoạn đầu khi thực hiện dự án, tập thể thành viên trong Zó Project phải đối mặt với nhiều khó khăn khi nghề làm giấy dó đã bị mai một. Bản thân chị Nhung và nhóm cũng đã nhận được sự hỗ trợ rất nhiều từ chính quyền và một số nghệ nhân làm giấy dó lâu đời. Mỗi người thợ là mỗi chứng nhân, mỗi câu chuyện để Zó Project có nhiều tư liệu để phục dựng và nỗ lực phục hồi lại nghề truyền thống này.
Trải qua một thập kỷ, Zó Project từ một dự án nhỏ, đang dần trở thành một doanh nghiệp xã hội, hoạt động với ý thức và nỗ lực gìn giữ nghề giấy dó theo thời gian. Trên hành trình duy trì và vận hành dự án trong suốt nhiều năm qua, Zó Project đã tạo ra và kinh doanh các mặt hàng, dòng sản phẩm ứng dụng được làm từ giấy dó.
Chị Trịnh Dương - thành viên Zó Project, chia sẻ: “Zó Project tập trung sáng tạo và phát triển những mặt hàng, dòng sản phẩm từ giấy dó theo hướng mộc mạc, thân thiện với môi trường, như postcard, sổ, lịch, tranh, hoa tai, thiệp cưới,... Ngoài ra, chúng mình đang cố gắng gìn giữ, phát triển thêm các dòng giấy khác, như giấy dó với vải tái chế, hạt giống, hoặc các loại giấy khác như giấy dướng, giấy điệp, giấy cacao,...’’.
Bên cạnh đó, với mong muốn truyền tải tới nhiều bạn trẻ và khách du lịch nước ngoài về giá trị và từng công đoạn làm nên giấy dó, Zó Project đã phát triển các chuỗi workshop trải nghiệm như workshop làm giấy dó, workshop làm sổ, đèn, khuyên tai, vòng tay từ giấy dó, workshop viết thư pháp trên giấy dó,...
Các chuỗi workshop này diễn ra hàng năm, cũng có thời điểm diễn ra theo mùa như vào dịp trung thu, dịp giáng sinh hoặc Tết Nguyên Đán,... Trong tương lai, Zó Project còn nhiều dự định và ý tưởng về những chuỗi hoạt động khác để góp phần lan tỏa và hội nhập nghề làm giấy dó đến với du khách trong nước và quốc tế.
Là một trong những bạn trẻ đến tham quan không gian trưng bày của Zó Project, Thu Thảo (21 tuổi, Hà Nội) hào hứng chia sẻ: “Trước đây mình chỉ nghe về giấy dó chứ chưa từng nhìn thấy ngoài đời. Đến đây, được nghe các anh chị kể về lịch sử của nghề, hiểu quy trình làm giấy tỉ mỉ và chạm tay vào từng tờ giấy, ngắm những sản phẩm thủ công, mình mới thấy nghề này không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa. Nếu có dịp quay lại, chắc chắn mình sẽ tham gia workshop làm giấy dó ở đây để trải nghiệm trọn vẹn hơn.”
Với vẻ đẹp mộc mạc, bền bỉ, giấy dó không chỉ là di sản văn hóa của người Việt mà còn là cầu nối tinh tế giữa truyền thống và sáng tạo đương đại. Việc khôi phục và gìn giữ nghề giấy dó là trách nhiệm của thế hệ trẻ, giúp lan tỏa bản sắc văn hóa Việt đến bạn bè quốc tế và giữ vững những giá trị tinh hoa của dân tộc.
-1756651692.png)
-1756652900.png)
